Thứ Tư, 23 tháng 5, 2012

Nữ quân nhân Việt Nam xinh đẹp

Họ là những nữ chiến sĩ hiếm hoi trong lực lượng vũ trang của Việt Nam, họ còn rất trẻ và vô cùng xinh đẹp

Một nữ chiến sĩ Cảnh sát Nhân dân Việt Nam


Một nữ chiến sĩ Cảnh sát Nhân dân Việt Nam trên chuyến tàu ra thăm Trường Sa



Các nữ chiến sĩ Cảnh sát Cơ động Việt Nam thảo luận sau giờ tập luyện


Hình ảnh 1 nữ chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam


Nữ chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam thực hành luyện tập


Hai nữ chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam


Nữ chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam trong Chương trình truyền hình Chúng tôi là chiến sĩ


Nữ chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam trong Chương trình truyền hình Chúng tôi là chiến sĩ


Nữ chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam luyện tập bắn đạn thật



Thứ Hai, 21 tháng 5, 2012

Nữ cảnh sát đặc nhiệm Việt Nam

Trong cái nóng những ngày hè, 32 nữ chiến sĩ đang ngày đêm luyện rèn để trở thành những nữ cảnh sát đặc nhiệm đầu tiên của lực lượng Công an Nhân dân Việt Nam.

Tại Tiểu đoàn đặc nhiệm số 1 (Kiều Mai, Phú Diễn, Hà Nội), 32 cô gái tốt nghiệp trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang đang ngày đêm rèn luyện. Đây chính là những nữ đặc nhiệm tương lai của lực lượng Công an Nhân dân Việt Nam.

Hiện nay, 32 cô gái đang trong giai đoạn hoàn thành khóa huấn luyện nâng cao để sẵn sàng ra quân làm nhiệm vụ. Dù là nữ, những người thường được gọi “chân yếu tay mềm”, nhưng ở đây tất cả các nữ học viên phải luyện tập những bài tập tương tự nam giới.

Một trong những bài huấn luyện có mức độ khó cùng những nguy hiểm là “bài xuống dây”, đòi hỏi các chiến sĩ phải có sức khỏe tốt, tinh thần dũng cảm. Trong đó, điều đầu tiên mà các chiến sĩ phải vượt qua là “sợ độ cao”.

Đối với các chiến sĩ nam đã khó, với nữ còn khó gấp vạn vạn lần. Nhưng với sự động viên của cấp trên, các nữ chiến sĩ đã xuất sắc hoàn thành bài tập.

Ngay cả trong bài xuống dây ngược, ở tư thế dốc đầu xuống đất, máu dồn nhiều lên mặt, gây căng thẳng thần kinh và khó kiểm soát về tâm lý nhưng các nữ chiến sĩ vẫn thắng được căng thẳng, làm chủ được tâm lý hoàn thành bài học.



Trung đội nữ cảnh sát đặc nhiệm đầu tiên của lực lượng Công an Nhân dân Việt Nam. Nguồn: An Ninh TV (ANTV)

Ngoài các kỹ năng đặc biệt, cũng như nhiều chiến sĩ nam khác, 32 cô gái còn phải luyện tập bài quyền với nhiều động tác được áp dụng trong chiến đấu.

Ở nội dung này, học viên đòi hỏi phải có sức mạnh, sự bền bỉ và dẻo dai.

Một nội dung khác không kém phần nguy hiểm, có thể “tự đánh mình” đó là bài tản vân côn, côn nhị khúc là binh khí ngắn, rất khó sử dụng, nếu không cẩn thận có thể tự gây thương tích cho chính mình.

Một khi đã sử dụng thành thạo côn nhị khúc có thể lấy thủ để công, lấy công để thủ. Các đòn thế biến hóa khôn lường của côn khiến đấu phương không thể kháng cự. Trong quá trình luyện tập, tất cả nữ đặc nhiệm đều phải tuyệt đối tuân thủ các qui tắc an toàn.

Sau những bài tập huấn luyện kỹ năng chiến đấu, các nữ chiến sĩ còn được tham gia bài tập tình huống. Điển hình, bài học giải cứu con tin trên máy bay, các nữ đặc nhiệm có thể độc lập tác chiến hoặc cùng phối hợp chiến sĩ nam thực hiện giải cứu an toàn con tin.

Dù trong bất kỳ bài tập nào, dù khó tới đâu, nhưng các nữ chiến sĩ vẫn luôn nỗ lực, cô gắng hoàn thành tốt mọi bài học với phương châm “thao trường đổ mồ hơi, chiến trường bớt đổ máu”.

Thứ Sáu, 18 tháng 5, 2012

Chủ tịch Hồ Chí Minh - tấm gương đạo đức sáng ngời

Sự vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ trên bình diện tư tưởng, trong lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp cách mạng, mà còn thể hiện bởi chính tấm gương đạo đức sáng ngời của Người.

Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức đã đạt tới sự thống nhất chặt chẽ giữa nói với làm, giữa lý luận với thực tiễn, suy nghĩ với hành động, việc công với đời tư, giữa đạo đức cách mạng với đạo đức đời thường. Vì thế, Người đã trở thành biểu tượng, là tấm gương sáng ngời về đạo đức, không chỉ của dân tộc Việt Nam, mà còn của cả nhân loại tiến bộ trên thế giới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh

Nói đến đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết là nói đến tấm gương trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân, trọn đời phấn đấu, hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và toàn nhân loại; ý chí và nghị lực tinh thần to lớn vượt qua mọi thử thách, khó khăn để đạt mục tiêu cách mạng. Ngay từ thuở thiếu thời, Người đã chọn cho mình con đường suốt đời phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Trên con đường cách mạng, Người đã chấp nhận mọi sự hy sinh, không quản gian nguy, luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, sáng suốt vạch ra con đường cách mạng đúng đắn để giải phóng và phát triển dân tộc Việt Nam.

Người đã cùng với Đảng ta đề ra đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn để lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân ta tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và sau đó, tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước quá độ đi lên CNXH. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận rõ “Không có gì quý hơn độc lập tự do!” và coi đó là lý tưởng, lẽ sống, là học thuyết chính trị - đạo đức của mình, của dân tộc Việt Nam. Từ đó, Người dấn thân vào thực tiễn đấu tranh cách mạng để mưu cầu tự do, hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam và toàn thể nhân loại. Hoài bão, ham muốn, ham muốn tột bậc của Người là làm sao cho nước nhà độc lập, dân ta được tự do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, nhà ở, được học hành tiến bộ, được chăm sóc sức khoẻ, được tự do đi lại, được hưởng quyền dân chủ, có đời sống ấm no hạnh phúc.

Chính ham muốn mãnh liệt ấy đã tạo cho Người một ý chí, nghị lực phi thường “giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục” và cho đến khi phải từ biệt thế giới này, Người vẫn chỉ có một điều luyến tiếc là không được phục vụ nhân dân lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Trung với nước, hiếu với dân trong đạo đức Hồ Chí Minh là tinh thần nhẫn nại, kiên trì, thắng không kiêu, khó khăn không nản, chẳng quản gian nguy vì mục tiêu độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Khi lâm vào tình cảnh bị hiểu lầm, nghi kỵ “như sống ở bên lề, bên ngoài Đảng”, Người vẫn kiên trì giữ vững quan điểm độc lập, tự chủ, luôn tự khuyên mình: muốn nên sự nghiệp lớn, tinh thần càng phải cao.

Đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện ở sự tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Trong toàn bộ hoạt động của mình, ở bất cứ hoàn cảnh, cương vị nào, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn hết lòng thương yêu, quý trọng, tin tưởng vào trí tuệ và sức mạnh của nhân dân. Người khẳng định rằng: “Nước ta là nước dân chủ”, vì vậy: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”1.

Trên thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn hoá thân vào nhân dân, nên thấu hiểu cuộc sống, tâm nguyện của nhân dân và suốt đời phấn đấu, hy sinh vì tự do, ấm no, hạnh phúc của dân. Chính vì thế, mọi việc làm, chủ trương, chính sách mà Người đề ra, cũng như chỉ đạo các cấp tổ chức triển khai thực hiện, đều xuất phát từ nhu cầu và lợi ích chính đáng của nhân dân, luôn luôn dựa vào tài trí, sức mạnh của dân. Từ nhận thức sâu sắc rằng, nếu nước nhà được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì, nên Người luôn chú trọng giáo dục cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân, có trách nhiệm với dân, phấn đấu chăm lo, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Người luôn dạy đội ngũ cán bộ phải là “người đầy tớ trung thành” của nhân dân; luôn gần dân, hiểu tâm lý, yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân; thường xuyên lắng nghe ý kiến của dân, không được lên mặt “quan cách mạng”, cậy quyền, cậy thế, đè đầu, cưỡi cổ dân.

Mặc dù ở cương vị rất cao, uy tín và sức hấp dẫn rất lớn, được toàn dân suy tôn là “Cha già dân tộc”, nhưng chưa khi nào Người tự cho mình đứng cao hơn nhân dân, mà luôn đồng cam, cộng khổ với nhân dân. Người cho rằng, Chủ tịch nước là công việc của “người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra trận”. Bởi vậy, mặc dù bận trăm công, ngàn việc, nhưng mỗi khi nhận được thư, quà chúc mừng của nhân dân, Người đều tự tay viết thư trả lời, cám ơn một cách thân tình, chu đáo. Việc làm đó là tấm gương ứng xử văn hoá, là bài học về sự khiêm nhường và kính trọng đối với nhân dân để các thế hệ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp học tập và noi theo. Cả cuộc đời Người đã nêu tấm gương thật độc đáo về đạo đức làm người, đạo đức cách mạng.

Đạo đức Hồ Chí Minh còn thể hiện sâu sắc ở tình thương bao la của Người với đồng loại. Tình cảm đó Người dành cho tất cả mọi người, không quên, không bỏ sót một ai. Người luôn hiểu rõ nỗi khổ của mỗi người, mỗi nhà và của toàn dân tộc. Người cảm nhận sâu sắc: “Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi”2. Tình yêu thương bao la đó được mở rộng đối với nhân dân lao động toàn thế giới. Với những người lầm lạc và cả những người chống đối hay kẻ thù, Người vẫn luôn thể hiện lòng khoan dung, độ lượng. Trong Di chúc, Người căn dặn khi thực hiện công tác hàn gắn vết thương sau chiến tranh: “đầu tiên là công việc đối với con người”. Trước hết là đối với cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong; cha, mẹ, vợ, con thương binh, liệt sĩ, với phụ nữ, nông dân...; cuối cùng là những nạn nhân của chế độ cũ. Điều này minh chứng cho tấm lòng yêu thương đối với tất cả mọi người ở Hồ Chí Minh. Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời của một con người nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu, hết mực vì con người để mỗi chúng ta học tập và noi theo.

Đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện rõ nét nhất là đức “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”; đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường. Trong cuộc sống hằng ngày, Người luôn coi khinh mọi sự xa hoa, không ưa chuộng nghi thức trang trọng. Người dặn dò chúng ta, khi Người qua đời, chớ nên điếu phúng linh đình, lãng phí thì giờ, tiền bạc của nhân dân. Ở Người luôn toát lên một cốt cách giản dị, cao thượng, vĩ đại và sự khiêm tốn phi thường; không sùng bái cá nhân, mà luôn luôn nêu cao sự nghiệp anh hùng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Người cho rằng: quần chúng mới là người làm nên lịch sử và lịch sử là lịch sử của chính họ chứ không phải của một cá nhân anh hùng nào.

Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, lấy Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động. Trong quá trình phấn đấu, xây dựng và trưởng thành, với bản lĩnh của một đảng cách mạng chân chính, dày dạn kinh nghiệm, luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, Đảng ta luôn xứng đáng là một đảng “Đạo đức và văn minh”; đa số cán bộ, đảng viên luôn có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, gắn bó với nhân dân, có ý thức phục vụ nhân dân, được nhân dân tin tưởng. Tuy nhiên, hiện nay một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, tham ô, tham nhũng, xa rời quần chúng nhân dân… Từ đó, tạo điều kiện cho các thế lực thù địch xuyên tạc, nói xấu đội ngũ cán bộ, đảng viên, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng; làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng... Để khắc phục tình trạng đó, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hiện nay đang triển khai quán triệt, tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI)  “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.

Nghị quyết đã xác định nhiều chủ trương, giải pháp về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong đó nhấn mạnh phải “tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14-5-2011 của Bộ Chính trị; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc làm theo gương Bác một cách thiết thực, hiệu quả”3. Theo đó, toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu, nhất là của đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp trong rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Vận dụng tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh vào thực tiễn, Nghị quyết yêu cầu các cấp phải: “Tập trung làm rõ trách nhiệm cá nhân, gương mẫu thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức, lối sống”4.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở chúng ta: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không còn trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”5. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên cần thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng, luôn trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu cho lý tưởng cách mạng của Đảng, vì độc lập của dân tộc, vì CNXH, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân; chú trọng thực hành “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, nhân ái, thuỷ chung, giản dị trong cuộc sống, nêu gương sáng với nhân dân. Đồng thời, cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp phải kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống... Từng cán bộ, đảng viên phải tự giác, kiểm điểm mình, “tự điều chỉnh mình, cái gì tốt thì phát huy, cái gì xấu thì tự gột rửa, tự sửa mình; cảnh giác trước mọi cám dỗ về danh lợi, vật chất, tiền tài, tránh rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, tệ hại”6. Muốn làm được điều đó, một trong những vũ khí sắc bén là phải thực hành tốt việc tự phê bình và phê bình trong Đảng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ví: Đảng cách mạng cần tự phê bình và phê bình như ta cần không khí. Người yêu cầu: “Mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong Đảng sẽ không có bệnh mà Đảng sẽ mạnh khỏe vô cùng”7. Người cũng chỉ rõ, tự phê bình và phê bình phải đi đôi với nhau; quá trình thực hiện phải đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; đội ngũ cán bộ chủ trì phải gương mẫu, có thái độ nghiêm túc, trung thực, khách quan, không e dè, nể nang; chỉ rõ ưu điểm, khuyết điểm, đề ra được biện pháp sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm, giúp nhau cùng tiến bộ; kiên quyết không để các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội lợi dụng, kích động, chống phá.

Tư tưởng và tấm gương sáng ngời về đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta. Nghiên cứu, học tập và thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) là góp phần đưa tư tưởng, đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh đi vào cuộc sống. Đây là vinh dự, trách nhiệm và là việc làm thường xuyên, thiết thân của mọi tổ chức, cá nhân, trước hết là của cấp uỷ, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ chủ trì các cấp.

 Đại tá, PGS, TS. NGUYỄN XUÂN TÚ

Học viện Chính trị

1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 698.

2 - Sđd, Tập 12, tr. 560 - 561.

3 - ĐCSVN - Văn kiện Hội nghị lần thứ tư BCHTƯ khoá XI, Nxb CTQG, H. 2012, tr. 35-36.

4 - Sđd, tr. 29.

5 - Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 557 - 558.

6 - ĐCSVN - Văn kiện Hội nghị lần thứ tư BCHTƯ khoá XI, Nxb CTQG, H. 2012, tr. 15-16.

7 - Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 239.

Sửng sốt trận thủy binh chúa Nguyễn ‘vùi dập’ hạm đội Hà Lan

Đầu thế kỷ 17, Công ty Đông Ấn Hà Lan nổi lên như một thế lực hải quân đáng sợ hàng đầu tại châu Á. Tuy vậy, họ đã phải chịu thất bại thảm hại trong cuộc chạm trán với thủy binh của chúa Nguyễn.

Bên cạnh người Bồ Đào Nha, từ đầu thế kỷ 17, Công ty Đông Ấn Hà Lan đã nổi lên như một thế lực hùng mạnh trong công cuộc khai thác thuộc địa châu Á của thực dân phương Tây. Với những chiến hạm lớn được trang bị vũ khí tối tân vào bậc nhất vào thời bấy giờ, họ đã chinh phục được vùng quần đảo Indonesia và trở thành nỗi sợ hãi của nhiều triều đại phong kiến trong khu vực.

Tuy vậy, trong một trận đánh với đội thủy binh chúa Nguyễn, người Hà Lan đã phải chịu thất bại thảm hại.

Trận đánh này xảy ra trong bối cảnh của thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh, khi nước Việt bị chia cắt làm hai phần, gồm Đàng Ngoài (từ sông Gianh trở ra Bắc) do chúa Trịnh kiểm soát và Đằng Trong (từ sông Gianh vào Nam) dưới quyền chúa Nguyễn.

Sau 3 lần đem đại binh vào Nam đánh chúa Nguyễn không thành, năm 1641, chúa Trịnh Tráng đã thương lượng với Toàn quyền Đông Ấn Hà Lan tại Batavia (Jakarta ngày nay) để mượn chiến hạm và các tay súng đánh chúa Nguyễn. Đổi lại, chúa Trịnh sẽ tặng cho người Hà Lan hàng vạn lạng bạc cùng lời hứa dâng Quảng Nam cho họ cai trị và bắt dân Đàng Trong phải nộp cống cho Toàn quyền Đông Ấn Hà Lan khi đánh bại được Đàng Trong.

Cơ hội mở rộng thuộc địa cùng những mâu thuẫn từ trước với Đàng Trong khiến phía Hà Lan nhanh chóng chấp thuận đề nghị của chúa Trịnh.

Trong hai năm sau đó, giữa quân của chúa Nguyễn và người Hà Lan đã có nhiều cuộc đụng độ, nhưng chưa có trận chiến quyết định nào để thay đổi cục diện giằng co.

Mùa hè năm 1643, theo yêu cầu của chúa Trịnh, Công ty Đông Ấn Hà Lan phái thuyền trưởng Pieter Baek dẫn ba pháo hạm lớn trang bị đầy đủ đến để hội quân với họ Trịnh tại sông Gianh (Quảng Bình). Trong hải trình của mình, hạm đội này đã bị gió thổi giạt vào gần cảng Eo của Đàng Trong (Thuận An, Phú Vang, Thừa Thiên - Huế ngày nay).

Pháo hạm của phương Tây là nỗi lo sợ của nhiều triều đại phong kiến châu Á. 

Biết tin, chúa Nguyễn Phúc Lan họp các tướng lĩnh Đàng Trong để bàn xem có nên đưa chiến thuyền ra đánh người Hà Lan hay không. Thủy binh của chúa Nguyễn thời ấy thuộc hàng rất mạnh trong khu vực, nhưng tiếng tăm của chiến hạm Đông Ấn Hà Lan khiến không ai dám tự tin sẽ chắc thắng.

Khi Nguyễn Phúc Lan tham vấn một người Hà Lan đang giúp việc thì người này trả lời với thái độ kiêu ngạo: "Tàu Hà Lan chỉ sợ mãnh lực và quân đội của Chúa trời thôi". Chính điều này khiến chúa Nguyễn tức giận và quyết định sẽ “dạy cho người Hà Lan một bài học”.

Ngày 7/7/1643, đích thân chúa Nguyễn Phúc Lan và Thế tử Nguyễn Phúc Tần dẫn 50 thuyền tiến thẳng ra cảng Eo. Khi nhìn thấy đối phương, thủy binh Nguyễn lao thẳng vào tấn công.

Dù một số thuyền bị trúng đạn, nhưng nhờ nhỏ, cơ động, cùng số lượng vượt trội, đội thuyền chúa Nguyễn nhanh chóng bao vây ba chiến hạm Hà Lan và đánh phá quyết liệt.

Chiến hạm lớn nhất của Hà Lan mang tên De Wijdeness do thuyền trưởng Pieter Baek chỉ huy đã chống trả rất dữ dội nhưng không đủ sức ngăn cản sự công phá của thủy binh Nguyễn. Quân Nguyễn đã áp sát và tràn lên boong tàu, bẻ bánh lái, chặt gẫy cột buồm khiến chiến hạm này bị tê liệt hoàn toàn.

Bị dồn vào bước đường cùng, thuyền trưởng con tàu Hà Lan cho châm lửa đốt kho thuốc súng. Con tàu nổ tung khiến hầu hết 200 thành viên trên tàu, kể cả Baek thiệt mạng. Hai chiến hạm còn lại cố thoát vòng vây và tăng hết tốc lực để bỏ chạy. Một chiếc trong số đó đâm vào đá ngầm và chìm xuống biển khi bị truy đuổi.

Thủy quân của chúa Nguyễn đã giành chiến thắng. Hỏa lực mạnh mẽ của người Hà Lan đã khiến họ chìm 7 thuyền và mất 700-800 binh sĩ.

Trận đánh này là lần đầu tiên trong lịch sử thuỷ quân của người Việt chiến thắng trước một hạm đội châu Âu. Đây cũng là một sự tổn thương nặng nề đối với thanh thế đội thuyền hùng mạnh của Công ty Đông Ấn Hà Lan.

Thất bại này khiến người Hà Lan từ bỏ tham vọng mở rộng ảnh hưởng tại Việt Nam. Sau trận đánh, do e ngại thủy binh chúa Nguyễn mà Công ty Đông Ấn Hà Lan không còn dám đưa tàu thuyền ra Đàng Trong.

Đến năm 1651, chúa Nguyền và người Hà Lan đã đạt được thỏa thuận bỏ qua những tranh chấp cũ để phát triển giao thương. Sức mạnh của chúa Nguyễn ngày càng được củng cố và họ Nguyễn đã đánh bại họ Trịnh vào thế kỷ sau đó.

Q.L (tổng hợp)

Thứ Sáu, 11 tháng 5, 2012

Điểm lại những biểu hiện 'điên rồ' gần đây của Trung Quốc

Nhiều điều rất bất thường trong cách hành xử của người Trung Quốc với các quốc gia khác đã diễn ra từ đầu năm 2012 đến nay.


Thoạt nhìn, chúng chỉ là những sự kiện mang tính đơn lẻ. Nhưng khi xâu chuỗi lại thì một xu hướng vận động mới trong nền ngoại giao của đất nước đông dân nhất thế giới này dường như đã được bộc lộ.

Xin được bắt đầu bằng mối quan hệ Nga – Trung Quốc.

Mặc dù người Trung Quốc luôn nói rằng quan hệ với Nga là mối quan hệ bằng hữu, mang tầm đối tác chiến lược, nhưng họ cũng không hề giấu diếm những suy nghĩ “bẩn thỉu” của mình về “bằng hữu” này.

Vào tháng 3/2012, trên diễn đàn quân sự của trang mạng Trung Quốc Sina.com.cn đã đăng một bài viết có tiêu đề: "Nga cần trả lại Sibir và vùng Viễn Đông cho Trung Quốc để tạo điều kiện phát triển tình hữu nghị và hòa bình trên toàn thế giới!".

Trong bài này, tác giả cho rằng: “Nếu Putin thực tế sẽ trả lại cho chúng ta những vùng đất đã mất, điều này sẽ có ảnh hưởng tốt đẹp đến mối ổn định quan hệ Trung - Nga. Đây sẽ là minh chứng của tình hữu nghị đích thực, sự tôn trọng lẫn nhau và tình đoàn kết giữa hai nước của chúng ta”.

Trước đó ít ngày, nhiều trang mạng Trung Quốc đã phát tán một kịch bản chi tiết về cuộc chiến Trung Quốc sẽ tiến hành nhằm chiếm đất của Nga. Theo đó, chỉ cần  2 tháng quân Nga sẽ bị đẩy lui và lính Trung Quốc sẽ tiếp cận dãy núi Ural, “biên giới tự nhiên” với Nga.

Báo chí Nga coi những bài viết như thế này chỉ là trò hề không hơn không kém. Nhưng họ cũng không thể không đặt câu hỏi rằng tại sao những trò hề này lại được diễn trên một trang mạng uy tín như Sina.com.cn, và có sự tính toán sâu xa nào sau chúng không?

Sau Nga, đến lượt Mỹ là đối tượng của những “cuồng ngôn” từ phía người Trung Quốc.

Trong chương trình truyền hình “Quốc phòng một tuần nhìn lại” đươc phát sóng trên toàn Trung Quốc hôm 30/4, khi nhận xét về tàu chiến thế hệ mới, tàu khu trục lớp Zumwatt của Mỹ, Chuẩn Đô đốc Trương Thiệu Trung đã phát biểu: "Thế hệ tàu này không có gì đáng nói. Thậm chí, chỉ cần được trang bị thuốc nổ, những chiếc tàu cá thông thường của Trung Quốc cũng có thể tiêu diệt được loại tàu này”.

“Quốc phòng một tuần nhìn lại” là một chương trình của Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc. Ông Trương giữ vai trò nhà bình luận quân sự chính cho đài này từ năm 1998. Lời đe dọa làm nổ tung tàu chiến Mỹ của ông chuẩn đô đốc này xuất hiện đúng thời điểm quan hệ Mỹ - Trung đang căng như dây đàn vì mâu thuẫn trên biển Đông.

Cũng trong tháng 4, chuyên trang quân sự thuộc tờ Hoàn Cầu thời báo của đảng Cộng sản Trung Quốc đã đăng một bài viết lạ, trong đó thừa nhận 'Bắc Kinh làm càn trên biển Đông', nhưng sẵn sàng bất chấp tất cả vì lợi ích của mình.

Và điều này được khẳng định bằng thái độ ngông cuồng ngày càng gia tăng của các ngư dân Trung Quốc tại các vùng biễn đang có tranh chấp với quốc gia khác.

“Cướp biển” – đó là từ ngữ mà báo chí Hàn Quốc đã sử dụng khi nói về những người ngư dân này, sau hàng loạt các vụ đụng độ bạo lực của họ với nhân viên công lực Hàn Quốc, khiến ít nhất một nhân viên thiệt mạng và nhiều người khác bị thương.

Một nhân viên công lực Hàn Quốc kể lại: "Trong khi đang xác định xem họ có đánh bắt phi pháp hay không, các thuyền viên Trung Quốc liền dùng rìu, đinh ba và các hung khí khác tấn công, họ không thèm quan tâm đến tính mạng của các nhân viên chấp pháp, tấn công điên cuồng, họ không phải là ngư dân nữa mà là bọn cướp biển”.

Nếu như cướp biển Somali là những nhóm ô hợp, vô chính phủ thì bọn cướp biển ở khu vực Đông Á lại nằm ở một hình thái hoàn toàn ngược lại. Bọn cướp biển nào nguy hiểm hơn thì ai cũng rõ.

Biểu hiện “điên rồ” gần đây nhất của người Trung Quốc liên quan đến đất nước Philippines.

Trong một chương trình của truyền hình trung ương Trung Quốc CCTV, phát thanh viên He Jia đã có một phát ngôn gây sốc: “Tất cả chúng ta đều biết rằng Philippines là lãnh thổ vốn có của Trung Quốc và Philippines thuộc chủ quyền Trung Quốc. Đây là sự thực không thể tranh cãi”.

Dù sau đó đoạn video trên bị rút khỏi website của CCTV thì trên internet, video này lan truyền rất nhanh. Cùng với đó là nhiều bình luận rằng tinh thần ái quốc cuồng nhiệt của nữ phát thanh viên khiến cô mắc sai lầm.

Tuy vậy, thật sự rất khó để tin rằng điều này là sơ xuất. Sẽ hợp lý hơn nếu nói rằng đó là một hành động khiêu khích có chủ ý được bật đèn xanh từ một thế lực nào đó, nhất là trong bối cảnh quan hệ song phương giữa Philippines và Trung Quốc đang nóng bỏng cực điểm vì tranh chấp lãnh thổ.

Trong thời gian tới đây, người Trung Quốc sẽ còn diễn những trò “điên rồ” nào nữa? Chúng ta hãy cùng chờ xem.

V.T

Thứ Năm, 10 tháng 5, 2012

Tọa đàm về đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”

Ngày 03 tháng 5 năm 2012, tại Hà Nội, Thượng tướng Ngô Xuân Lịch, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Trưởng Ban Chỉ đạo chống “diễn biến hòa bình” (DBHB) trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa của Quân ủy Trung ương chủ trì tọa đàm chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Cùng dự có các đồng chí Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; một số tướng lĩnh, cán bộ cao cấp, nhà khoa học trong và ngoài Quân đội.

Thượng tướng Ngô Xuân Lịch chủ trì Tọa đàm

Sau Báo cáo Đề dẫn của Thiếu tướng Nguyễn Thanh Tuấn, Cục trưởng Cục Tuyên huấn, các tham luận và phát biểu, trao đổi của các đại biểu trong buổi tọa đàm đã tập trung làm rõ tính cấp thiết, tầm quan trọng và tính chất lâu dài, gay go, quyết liệt của cuộc đấu tranh chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận; âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; những thuận lợi, khó khăn và chủ trương, giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả cuộc đấu tranh chống DBHB trong Quân đội hiện nay.

Phát biểu kết luận buổi tọa đàm, Thượng tướng Ngô Xuân Lịch khẳng định: trong cuộc đấu tranh chống DBHB, Quân đội là lực lượng tiêu biểu, nòng cốt đi đầu; bất luận trong hoàn cảnh nào cũng luôn tỏ rõ lòng trung thành vô hạn với Đảng, là chỗ dựa vững chắc, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Để nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, đồng chí Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị yêu cầu: Nâng cao nhận thức và thái độ, trách nhiệm của các cấp ủy, cán bộ chủ trì, trước hết là bí thư, chính ủy (chính trị viên), người chỉ huy, cơ quan chức năng các cấp đối với cuộc đấu tranh này; đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn; kịp thời phát hiện, nắm vững âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị, trọng tâm là giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong Quân đội; gắn xây dựng trận địa tư tưởng với xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện; kết hợp cuộc đấu tranh chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Phát huy vai trò chủ động tiến công của hệ thống báo chí, xuất bản Quân đội; tích cực xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nòng cốt đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận; chủ động tiến công, gắn kết chặt chẽ giữa “xây” với “chống”, lấy xây là chính; dựa vào cơ sở lý luận và thực tiễn, với cái tâm trong sáng để thuyết phục là chủ yếu. Thực hiện vừa tiến công địch, vừa ngăn chặn “tự diễn biến” trong nội bộ, lấy ngăn chặn “tự diễn biến” là chính; vừa đấu tranh xóa bỏ cái xấu, vừa nêu nhiều tấm gương sáng, điển hình tiên tiến trong xã hội, trong Quân đội; phối hợp chặt chẽ lực lượng Quân đội với tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội từ Trung ương đến cơ sở, để tạo sức mạnh tổng hợp nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận.

Đồng chí Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị chỉ đạo các cơ quan chức năng nghiên cứu, tiếp thu những ý kiến đề xuất của các đại biểu trong tọa đàm để sớm tham mưu với trên đề ra chủ trương, kế hoạch, giải pháp cụ thể… góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh, giữ vững trận địa tư tưởng trong Quân đội.

MINH SƠN

Thứ Tư, 9 tháng 5, 2012

Truyền hình Trung Quốc phát ngôn: Philippines là lãnh thổ không thể tách rời

Một phát thanh viên của truyền hình quốc gia Trung Quốc đã "sơ suất" hay "chủ ý" tuyên bố Philippines là một phần của lãnh thổ Trung Quốc. Vụ việc xấu hổ này diễn ra trong lúc căng thẳng giữa hai nước về chủ quyền trên Biển Đông đang gia tăng.



Tại phút thứ 1:35, nữ phát thanh viên Hòa Giai đã nói nhầm như sau: “Như tất cả chúng ta đều biết Philippines là một phần không thể tách rời của lãnh thổ Trung Quốc. Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với Philippines”.

Hòa Giai, phát thanh viên của đài truyền hình trung ương Trung Quốc CCTV đã đưa ra tuyên bố trên trong bản tin tối hôm thứ Hai và sau đó đoạn băng ghi lại bản tin đã được đưa lên mạng Internet.

Người phát thanh viên này định nói đảo Hoàng Nham (bãi cạn Scarborough) mà hai nước đều tuyên bố chủ quyền là một phần lãnh thổ của Trung Quốc.

“Tất cả chúng ta đều biết rằng Philippines là một phần không thể tách rời của Trung Quốc và Philippines thuộc về chủ quyền của Trung Quốc, đây là thực tế không thể tranh cãi”, nữ phát thanh viên nói trong bản tin và bản tin này sau đó đã bị rút khỏi trang web của kênh CCTV nhưng đoạn video của chương trình truyền hình này vẫn được đưa lên tại một số trang web trên mạng.

Người xem đã bàn tán, đùa cợt về vụ việc và cho rằng tinh thần dân tộc của cô phát thanh viên đã khiến cô mắc sai lầm đó nhưng cũng có không ít khán giả Trung Quốc tranh thủ "té nước theo mưa" và đưa ra những lời bình luận sặc mùi hiếu chiến.

“Cô phát thanh viên này thật đáng tuyên dương, một người rất yêu nước, cô ấy đã tuyên bố với cả thế giới rằng Philippines thuộc về Trung Quốc”, một tiểu blogger có tên helenjhuang bình luận.

“Chúng ta nên tấn công trực tiếp, đóng gói đồ đạc của ngài Aquino (Tổng thống Philippines) và lấy lại lãnh thổ không thể tách rời của chúng ta”, một người khác bình luận.

Một tiểu blogger khác có biệt hiệu kongdehua thì nói “Về cơ bản Philippines đã gây ra những rắc rối hết sức vô lý, nếu họ muốn một cuộc chiến tranh thì chúng ta sẽ chiến đấu, chẳng ai sợ họ cả”.

“Nếu mỗi người Trung Quốc chỉ cần nhỏ một bãi nước bọt, thì chúng ta sẽ nhấn chìm (Philippines)”, một bình luận khác xuất hiện.

Các quan chức của đài CCTV đã từ chối bình luận về sai sót của cô Hòa và cũng không cho biết liệu đài này đã đưa ra lời xin lỗi hay chưa.

Khi nhận xét về các tranh chấp chủ quyền và các phong trào ly khai ở Đài Loan, Tây Tạng, Tân Cương và các vùng biển quanh nước này, các nhà ngoại giao và truyền thông Trung Quốc vẫn thường gọi những vùng này là “phần không thể tranh cãi của chủ quyền và lãnh thổ Trung Quốc”.

Hôm thứ Hai, thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Phó Huỳnh tuyên bố Bắc Kinh đã sẵn sàng cho “bất kỳ sự leo thang nào” trong tranh chấp lãnh hải với Philippines khi căng thẳng giữa hai nước về bãi cạn Scarborough chưa có dấu hiệu suy giảm.

Lê Dung

Bắt giữ một số đối tượng chống phá chính quyền

Ngày 8/5, lực lượng an ninh của tỉnh Gia Lai đã bắt giữ một số đối tượng FULRO ở 3 làng Kret Krot, K Dùng 1 và BChắt thuộc xã Hra, huyện Mang Yang (Gia Lai).

Thời gian qua, các đối tượng FULRO lưu vong do Ksor KơK đứng đầu thường xuyên liên lạc, móc nối để lôi kéo, kích động một bộ phận người dân trên địa bàn tỉnh Gia Lai, đặc biệt là người dân 3 làng Kret Krot, K Dùng1 và BChắt, theo tổ chức phản động FULRO để thành lập “Nhà nước của người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên”. Mặc dù đã được chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể vận động, giáo dục kiểm điểm nhiều lần, nhưng các đối tượng này vẫn ráo riết lôi kéo một số người nhẹ dạ nghe theo FULRO hoạt động chống phá chính quyền, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ tôn giáo, gây mất an ninh trật tự tại địa phương.

Sau một thời gian điều tra và có đủ chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của các đối tượng, lực lượng an ninh của tỉnh Gia Lai đã bắt giữ các đối tượng này, trong đó có một số đối tượng cầm đầu, cốt cán, cùng rất nhiều vũ khí như cung nỏ, giáo mác... Sau khi bắt giữ, Công an tỉnh Gia Lai chính thức khởi tố 3 đối tượng cầm đầu là Runh, Byưk và Jơnh theo điều 87 Bộ luật Hình sự về tội "phá hoại chính sách đoàn kết".

Thứ Ba, 8 tháng 5, 2012

Luật đất đai VN bị lũng đoạn bởi các nhóm lợi ích?

Không thể nói một thứ có thể quy đổi thành tiền mà không phải là tài sản. Không thể bỗng dưng một khối tài sản có khi phải đánh đổi cả cuộc đời lại có thể bị thu hồi. Không thể nhìn đất ấy đang làm lợi cho các đại gia qua quyết định hành chính của một cấp chính quyền, thường chỉ là, hàng huyện.

Bài viết của blogger OSIN HUYDUC. Tiêu đề do Ban quản trị REDS.VN đặt lại.


Chính quyền Hưng Yên nói họ đã không sai khi tổ chức cưỡng chế 70 hecta đất của 160 hộ dân Văn Giang. Chưa có cơ sở để tin rằng Thủ tướng sẽ nói quyết định này của Hưng Yên là sai như ông đã làm với chính quyền Hải Phòng. Nhưng, cho dù bên thua trận là nhân dân thì hình ảnh hàng ngàn cảnh sát chống bạo động, “khiên-giáo” tua tủa, đối đầu với vài trăm nông dân cuốc xẻng trong tay không chỉ phản ánh mối quan hệ Chính quyền - Nhân dân hiện nay mà còn có tính dự báo không thể nào xem thường được.

Làm luật cũng là Chính quyền, giải thích luật cũng là Chính quyền, chỉ có người dân là thiệt. Kể từ năm 1993, Luật Đất đai theo tinh thần Hiến pháp 1992 đã được sửa đổi 5 lần. Chỉ riêng các điều khoản thu hồi, nếu như từng được quy định khá chặt chẽ trong Luật 1993, đã trở nên rắc rối và dễ bị lũng đoạn hơn trong Luật 2003.

Điều 27, Luật Đất đai 1993, quy định rằng: “Trong trường hợp thật cần thiết, Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì người bị thu hồi đất được đền bù thiệt hại”. Điều Luật tiếp theo còn đưa ra những điều kiện ràng buộc nhằm tránh sự lạm dụng của Chính quyền. Luật sửa đổi 1998 gần như giữ nguyên tinh thần này. Nhưng, đây là thời điểm mà các đại gia bắt đầu phất lên nhờ đất. Tiến trình ban hành chính sách bắt đầu có sự can dự của các nhóm đặc lợi, đặc quyền.

Luật Đất đai 2003 đã đặt rất nhiều rủi ro lên người dân khi điều chỉnh mối quan hệ này thành một chương gọi là Mục 3. Trong phần “Thu hồi đất”, Luật gần như đã đặt những mục tiêu cao cả như “lợi ích quốc gia” ngang hàng với “lợi ích của các đại gia”. Điều 39 định nghĩa những “lợi ích quốc gia” chủ yếu là những “dự án đầu tư có nhu cầu sử dụng đất phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt”. Dự án Ecopark đã được Thủ tướng phê duyệt, nếu chiểu theo Luật 2003, việc nông dân Văn Giang không chịu bị thu hồi nên bị cưỡng chế là hoàn toàn phù hợp với Điều 39.

Việt Nam không có một tối cao pháp viện để nói rằng Luật 2003 ở những điều khoản nói trên đã vi Hiến; Việt Nam cũng không có tư pháp độc lập để nông dân có thể kiện các quyết định của chính quyền. Chỉ vì không có niềm tin Hệ thống có thể mang công lý đến cho mình mà gia đình anh Đoàn Văn Vươn, hôm 5-1-2012, và 160 hộ dân Văn Giang, hôm 24-4-2012, phải chọn hình thức kháng cự chịu nhiều rủi ro như thế.

Cho dù “đất đai thuộc sở hữu toàn dân”, người dân chỉ có các quyền của người sử dụng. Nhưng, sở dĩ ai cũng gắn bó với mảnh đất mà mình đang cắm dùi là bởi: Đất ấy không phải được giao không từ quỹ đất công như những quan chức có đặc quyền, đặc lợi; Đất ấy họ đã phải mua bằng tiền; Đất ấy họ phải tạo lập bằng nước mắt, mồ hôi; Đất ấy là của ông cha để lại.

Không thể nói một thứ có thể quy đổi thành tiền mà không phải là tài sản. Không thể bỗng dưng một khối tài sản có khi phải đánh đổi cả cuộc đời lại có thể bị thu hồi. Không thể nhìn đất ấy đang làm lợi cho các đại gia qua quyết định hành chính của một cấp chính quyền, thường chỉ là, hàng huyện.

Đất đai của các doanh nghiệp, của nông dân, vì thế, phải được coi là “tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức”. Trong bài “Ba khâu Đột phá của Thủ tướng” tôi có đề nghị đa sở hữu hóa đất đai, công nhận quyền sở hữu đã có trên thực tế của người dân. Nhưng, sau gần một năm, tôi nghĩ là, những người lạc quan chính trị nhất cũng không còn hy vọng ấy. Cho dù chưa có những thay đổi về mặt ngôn từ thì việc tuân thủ Hiến pháp 1992 là điều không nên bàn cãi. Điều 18 Hiến pháp 1992, nói: “Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài”. Nghĩa là việc giao đất cho dân là vô thời hạn. Khi bình luận về các điều khoản quy định thời hạn giao đất, chính một trong những tác giả chính của Luật Đất đai 1993, ông Tôn Gia Huyên, cũng cho rằng, Luật đã có “một bước lùi so với Hiến pháp”.

Hiến pháp đã cho “chuyển quyền sử dụng” có nghĩa là công nhận quyền ấy như một tài sản của người dân. Nghĩa là, thay vì “thu hồi đất” như các quy định trong Luật Đất đai, “trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia”, Nhà nước nên chiểu theo Điều 23 của Hiến pháp mà “trưng mua, trưng dụng”. Luật trưng mua - trưng dụng cũng nên định nghĩa minh bạch “lợi ích quốc gia” để phân biệt với “lợi ích của các đại gia”. Và khi trưng mua thì nên lấy giá giao dịch trên thực tế chứ không phải là giá hành chánh được nghĩ ra trong các phòng máy lạnh.

Với những dự án lớn, dụng chạm xã hội, như Ecopark, cho dù là tư nhân đầu tư, thì cũng nên đòi phải minh bạch trong từng bước đi. Phải buộc kiểm toán để thấy rằng, đất đai của nông dân chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng vốn đầu tư và mời nông dân tham gia bằng cách góp vốn và chia lãi theo tỉ lệ vốn bằng quyền sử dụng đất.

Vì sao trong trường hợp vì lý do quốc phòng, an ninh và lợi ích quốc gia mà Hiến pháp vẫn yêu cầu phải trưng mua theo giá thị trường? Vì sao các nhà nước của dân vẫn đền bù thỏa đáng cho các trường hợp rủi ro ví dụ như bồi thường cho ai đó đang đi dưới hè đường bị một cành cây rơi trúng. Cái cành cây ấy, mọc ở ven đường, mang lại phúc lợi bóng mát cho hàng vạn con người nên khi nó gãy không thể để một người chịu thiệt.

Người dân Văn Giang không chống lại dự án Ecopark, người dân chỉ không đồng ý với giá và cách mà Chính quyền đền bù. Nếu con số 90% nông dân Văn Giang đã nhận đền bù là đúng thì cũng không thể coi 10% phản ứng là sai. Trước anh Đoàn Văn Vươn đã có những người cam chịu lệnh thu hồi đất của chính quyền Tiên Lãng.

Đừng nghĩ những người chân lấm tay bùn không biết tính toán. Đừng nghĩ nông dân không biết xót xa khi nhận chưa tới 150 nghìn đồng/ m2 rồi nhìn đất của họ được đem bán với giá hàng chục triệu đồng. Chính quyền nói, “chỉ có 30% diện tích được phục vụ vào mục đích kinh doanh, tức là phần chủ đầu tư làm nhà để bán, còn lại là diện tích đất dành cho phát triển giao thông, công trình phúc lợi, cây xanh”. Tất nhiên phải có phần hạ tầng và cây xanh này thì người ta mới đến Ecopark mua nhà. Nhưng, cho dù nó thực sự là phúc lợi thì cũng không thể đòi hỏi 1.500 hộ dân ở Văn Giang phải chịu thiệt cho các đại gia đến hưởng.

Sáng 17-4-2009, khi bị cưỡng chế thu hồi đất, chính người thân của Thủ tướng đương nhiệm cũng đã kháng cự. Cho dù 185 hecta đất cao su mà những người này có được ở huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương, nhẹ nhàng hơn cách mà thường dân có được vài nghìn mét ruộng nương. Đất ấy họ được địa phương bán với giá bình quân 50 triệu/ hecta và sau đó khi thu hồi lại, Bình Dương đã đền bù mỗi hecta gần một tỉ. Tôi nhắc lại điều này chi để đề nghị tất cả ai quan tâm nên đặt mình trong vị trí của người dân Văn Giang. Từ các quan chức ra lệnh cho đến những cảnh sát đã đánh vào đầu dân đều phải nghĩ đến ngày đất đai của nhà mình bị Chính quyền cưỡng chế.

Đừng nghĩ Đoàn Văn Vươn hay Văn Giang là đơn lẻ. Không nên coi một chính sách luôn giữ kỷ lục trên dưới 80% tổng số người khiếu kiện trong suốt hơn 20 năm qua là không có gì sai. Cho dù quyết tâm cưỡng chế 160 hộ dân ở Văn Giang có thể chỉ vì lợi ích của một số cá nhân; có thể sau thất bại trong vụ Đoàn Văn Vươn, Chính quyền muốn cứng rắn để dập tắt khát vọng đòi đất của những nông dân muốn noi gương anh Vươn. Thì, hình ảnh cuộc cưỡng chế hôm 24-4-2012 đã trở thành một vết nhơ trong lịch sử.

Một chế độ luôn lo sợ mất ổn định không nên nuôi dưỡng quá nhiều những mầm mống đang làm mất ổn định. Một chế độ rất sợ các thế lực thù địch không nên tạo quá nhiều thù địch ngay chính trong lòng mình. Đất nước này tao loạn quá nhiều rồi, hơn ai hết người dân cũng cần ổn định.  

Blogger OSIN HUYDUC

Hoạt động chống phá của 'Câu lạc bộ nhà báo tự do'

Chỉ trong thời gian từ tháng 9/2007 đến tháng 10/2010, đã có 421 bài đăng trên blog này, trong đó có 94 bài do thành viên CLBNBTD viết và 327 bài lấy lại từ các đài báo nước ngoài, các blog, trang web của các tổ chức hoạt động chống phá Nhà nước Việt Nam.


Viện KSND TP HCM vừa hoàn tất cáo trạng và chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án sang TAND TP HCM truy tố 3 bị can: Nguyễn Văn Hải (60 tuổi, trú quận 3, TP HCM), Tạ Phong Tần (44 tuổi, quê Bạc Liêu) và Phan Thanh Hải (43 tuổi, trú quận Thủ Đức, TP HCM, Giám đốc Công ty TNHH Tư vấn luật nhân quyền) về tội danh “Tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam”. Vụ án sẽ được TAND TP HCM đưa xét xử sơ thẩm trong thời gian sắp tới.

Kích động chống phá Nhà nước

Qua trao đổi thông tin, Lê Xuân Lập (trú TP Biên Hòa, Đồng Nai) nguyên cán bộ Cơ quan đại diện Báo Thanh Tra tại TP HCM có đơn gửi Hội Nhà báo Việt Nam, người từng xin thành lập “Hội Nhà báo tự do” để quy tụ các cộng tác viên là những người không hưởng lương của cơ quan báo chí (không có thẻ nhà báo) nhằm tương trợ, giúp đỡ nhau.

Ngày 19/9/2007, Lê Xuân Lập đã gặp gỡ Nguyễn Văn Hải cùng một số đối tượng khác tại TP Biên Hòa (Đồng Nai) rồi thành lập “Câu lạc bộ nhà báo tự do” (CLBNBTD), Lập được bầu làm chủ nhiệm. Sau đó, Nguyễn Văn Hải và 2 đối tượng khác được giao nhiệm vụ thiết kế blog CLBNBTD rồi thông báo rộng rãi cho các thành viên sử dụng.

Sau đó Nguyễn Văn Hải đã tự động thay đổi mật khẩu mới của blog CLBNBTD để nắm giữ quyền quản lý điều hành. Hải đã tập hợp thêm Tạ Phong Tần và Phan Thanh Hải tham gia CLBNBTD. Để mở rộng phạm vi tuyên truyền, khuếch trương hoạt động, Nguyễn Văn Hải còn chỉ đạo lập thêm các phụ trang blog CLBNBTD và phân công Nguyễn Văn Hải Chủ nhiệm CLBNBTD, Tạ Phong Tần và Phan Thanh Hải phụ trách trang “Khoa học Pháp lý”, còn Lê Xuân Lập đã bị Hải thải loại.

Ngay sau khi lên nắm quyền Chủ nhiệm CLBNBTD, Nguyễn Văn Hải cùng Tạ Phong Tần, Phan Thanh Hải và một số thành viên đã liên tục viết nhiều bài với nội dung tuyên truyền, xuyên tạc sự thật nhằm chống phá Nhà nước CHXHCN Việt Nam đăng trên blog CLBNBTD và các blog của riêng của mình.

Chỉ trong thời gian từ tháng 9/2007 đến tháng 10/2010, đã có 421 bài đăng trên blog này, trong đó có 94 bài do thành viên CLBNBTD viết và 327 bài lấy lại từ các đài báo nước ngoài, các blog, trang web của các tổ chức hoạt động chống phá Nhà nước Việt Nam.

Trong số này, 26 bài được giám định viên kết luận: “…Hầu hết những bài viết đều chứa nội dung, giá trị của sự phê phán trong tinh thần không phải để xây dựng hoặc cao hơn là lên án, kết án nhằm hướng tới sự cổ động, kích động công luận tham gia đấu tranh thay đổi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thay đổi chế độ chính trị, Nhà nước hiện tại nhằm xây dựng một chế độ khác, nhà nước khác… Xác lập và công bố hệ thống quan điểm về thông tin báo chí, ngôn luận của một nhóm nhà báo mệnh danh tự do cố thể hiện mình như là thế lực mới đang được hình thành và từng bước trưởng thành trong lòng Chế độ Cộng sản ở Việt Nam hiện tại nhằm mục đích xây dựng, tập hợp lực lượng chính trị chống đối phục vụ cho âm mưu diễn biến, lật đổ trước mắt và lâu dài”. (Kết luận giám định số 10/KLGĐ, ngày 15/4/2011).

Xúi giục biểu tình

Không chỉ là Chủ nhiệm CLBNBTD, Nguyễn Văn Hải còn thể hiện vai trò cầm đầu trong các hoạt động như: Tổ chức biểu tình tại TP HCM để đưa tin và chỉ đạo các thành viên trong CLB viết bài đăng trên blog CLBNBTD nhằm tạo thanh thế cho CLBNBTD. Chính Nguyễn Văn Hải cùng các thành viên trong đó có Phan Thanh Hải và Tạ Phong Tần đã lợi dụng các sự kiện chính trị, tổ chức và tham gia các cuộc biểu tình gọi là chống Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa – Trường Sa và tẩy chay Olympic Bắc Kinh rước đuốc qua TP HCM vào các ngày 9/122007, 16/12/2007 và 19/1/2008 tại TP HCM.

Thực chất mục đích của Nguyễn Văn Hải và đồng bọn là để tập hợp lực lượng gây tiếng vang trong và ngoài nước cho CLBNBTD tiến tới thực hiện ý đồ đấu tranh nhằm thay đổi chế độ chính trị, xác lập đa nguyên đa đảng tại Việt Nam. Các đối tượng còn tổ chức cho các thành viên CLBNBTD tiếp xúc với đại diện của các tổ chức phản động khác như: cái gọi là “Đảng Dân chủ Việt Nam”, “Tập hợp Thanh niên dân chủ” với các nhân vật phản động như Nguyễn Tiến Trung, Hoàng Lan, Trần Khuê…

Đối với Tạ Phong Tần, vào tháng 4/2007 từ Bạc Liêu lên TP HCM làm trợ lý cho Lê Trần Luật (một đối tượng phức tạp, Trưởng văn phòng luật sư Pháp quyền) và tham gia CLBNBTD của Nguyễn Văn Hải. Tần đã lập blog “Công lý và Sự thật”, sau đổi thành “Sự thật và Công lý”, Tần đã tích cực viết nhiều bài đăng trên mạng Internet và trả lời phỏng vấn có nội dung tuyên truyền chống phá Nhà nước. Tạ Phong Tần đã phát tán 101 tài liệu trên mạng Internet có nội dung tuyên truyền chống phá Nhà nước Việt Nam, hằn học với chế độ, xúc phạm lãnh tụ và các cơ quan quản lý Nhà nước, các viên chức thi hành công vụ. Ngoài ra, Tạ Phong Tần còn cùng với Phan Thanh Hải kích động nhân dân tham gia biểu tình gọi là chống Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa và Trường Sa; Tẩy chay Olimpic Bắc Kinh rước đuốc qua TP HCM nhằm gây rối loạn trị an.

Riêng Nguyễn Văn Hải và Phan Thanh Hải còn tham gia đợt huấn luyện “Đấu tranh bất bạo động” do tổ chức phản động “đảng Việt Tân” tổ chức tại Thái Lan. Phan Thanh Hải khai rằng, mục đích của khóa huấn luyện là nhằm lật đổ Việt Nam.

Quá trình điều tra cho thấy, Nguyễn Văn Hải đã trực tiếp quan hệ và nhận sự chỉ đạo của Nguyễn Tiến Trung (đang thi hành án phạt tù trong vụ “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” do Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Công Định và đồng phạm thực hiện) là Trưởng ban Thanh niên của cái gọi là “đảng Dân chủ Việt Nam”.

Nguyễn Tiến Trung đã gặp Nguyễn Văn Hải, Phan Thanh Hải, Tạ Phong Tần nhiều lần để trao đổi về vấn đề “dân chủ Việt Nam”. Nguyễn Tiến Trung khai rằng, mục đích của CLBNBTD là đấu tranh cho đa nguyên đa đảng tại Việt Nam nên y đã tích cực thúc đẩy cho sự ra đời của CLBNBTD cũng như tích cực ủng hộ những hoạt động của CLBNBTD sau khi được thành lập.

Quá trình điều tra cho thấy, những hoạt động tích cực của Nguyễn Văn Hải và đồng bọn đều nhằm tập hợp lực lượng hình thành tổ chức đối lập chống lại Nhà nước CHXHCN Việt Nam, núp dưới tên gọi “Câu lạc bộ Nhà báo tự do” để khi có cơ hội sẽ hoạt động thay đổi chế độ Nhà nước Việt Nam.

Đối với Lê Xuân Lập và một số đối tượng khác mặc dù có giúp sức, viết bài, phát tán tài liệu chống phá nhưng đã có thái độ thành khẩn, hợp tác với cơ quan điều tra nên không bị xử lý hình sự mà thông báo về địa phương để theo dõi, quản lý.

THẾ VINH (NĂNG LƯỢNG MỚI)

Thứ Tư, 2 tháng 5, 2012

Đính chính vụ Văn Giang - Ecopark và bà Nguyễn Thanh Phượng

Ban biên tập nhận nguồn tin từ Cộng tác viên cho biết: Ngày 2/5/2012, Tổng giám đốc Công ty cổ phần đầu tư và phát triển đô thị Việt Hưng (nhà đầu tư thực hiện dự án Ecopark, đăng ký kinh doanh tại Hưng Yên) là ông Đào Ngọc Thanh, đã ban hành công văn số 83/CV-VH gửi các cơ quan thông tấn báo chí, đài phát thanh, truyền hình Trung ương và địa phương trong cả nước với mong muốn các cơ quan truyền thông giúp ông Đào Ngọc Thanh làm sáng tỏ thông tin về việc bà Nguyễn Thanh Phượng với nội dung:



Hình ảnh công văn của công ty “Cổ phần đầu tư và phát triển đô thị Việt Hưng” gửi cơ quan báo chí
Nội dung trong bản công văn được ông Đào Ngọc Thanh khẳng định rõ: “Sau khi cưỡng chế đất đai ở Văn Giang, Hưng Yên. Ngày 24/4/2012, trên mạng Internet xuất hiện một số thông tin cho rằng “Công ty Cổ phần đầu tư và phát triển đô thị Việt Hưng” (nhà đầu tư thực hiện dự án Ecopark, đăng ký kinh doanh tại Hưng Yên) và Công ty CP phát triển Bất động sản Việt Hưng là một.

-> Đọc thêm: Sự thật: TT Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Thanh Phượng và Ecopark

Trước thông tin này, Tổng giám đốc khẳng định “Công ty Cổ phần đầu tư và phát triển đô thị Việt Hưng” hoàn toàn không liên quan gì tới Công ty CP phát triển Bất động sản Việt Hưng”, mọi thông tin về pháp lý của công ty, hoàn toàn có thể kiểm chứng tại cổng thông tin Doanh nghiệp và đầu tư Hưng Yên. Đường dẫn: http://hungyenbusiness.gov.vn. Và kể từ năm 2003 thành lập công ty đến nay, “Công ty Cổ phần đầu tư và phát triển đô thị Việt Hưng”(Vihajico), chưa từng thực hiện phát hành cổ phiếu ra công chúng bất kỳ lần nào. Tổng giám đốc công ty hiện nay là ông Đào Ngọc Thanh, cùng Chủ tịch Hội đồng quản trị là ông Lương Xuân Hà, chứ không phải theo một số tin đồn thất thiệt là Bà Nguyễn Thanh Phượng mà cộng đồng mạng đã đồn đoán.

Chúng tôi khẳng định bà Nguyễn Thanh Phượng hoàn toàn không liên quan gì tới dự án Ecopark, cũng như không có bất cứ vai trò pháp lý nào trong Công ty Cổ phần đầu tư và phát triển đô thị Việt Hưng.

Nội dung chi tiết bản công văn của Công ty cổ phần đầu tư và phát triển đô thị Việt Hưng:



Nguồn: http://thutuongnguyentandung.net/tin-nong-cong-ty-cp-dt-pt-do-thi-viet-hung-dinh-chinh-ve-vu-viec-ecopark.html

Mỹ và Nga thiết lập đường dây nóng cho các cuộc tấn công không gian mạng

Trung tâm giảm thiểu thảm họa hạt nhân (NRRC) được thành lập năm 1988 bởi Bộ Ngoại giao Mỹ đã cung cấp một đường dây trực tiếp liên lạc giữa Mỹ và Nga. Nó được thiết kế để ngăn chặn những hiểu lầm giữa hai cường quốc hạt nhân trong thời kì chiến tranh lạnh. Tuy nhiên giờ đây tình hình đang thay đổi,an ninh mạng đang trở nên rất nóng đặc biệt giữa các cường quốc bởi các cuộc tấn công xuyên quốc gia diễn ra gần như hàng ngày. Mới đây NRRC đã cung cấp thêm một kênh liên lạc mới cho việc trao đổi thông tin về các cuộc tấn công không gian mạng.


Các kênh liên lạc an toàn này sẽ cho phép hai quốc gia nắm rõ tình hình các cuộc tấn công mạng giữa hai nước để tránh tình trạng tấn công leo thang, tuy vậy chỉ có những cuộc tấn công nhằm vào chính phủ hai nước mới thuộc nhiệm vụ của NRRC. Ý tưởng này ban đầu cho phép một kênh liên lạc song phương giữa ba nước Mỹ,Nga,Trung Quốc nhưng việc đàm phán với Trung Quốc diễn ra chậm chạp và có vẻ Trung Quốc không mặn mà lắm. Hiện tại các thỏa thuận giữa Mỹ và Nga đã sẵn sàng và sẽ được hoàn tất trong vài tuần tới.

Theo: TheVerge
btahdvnbits@HDVNbits

Thứ Bảy, 28 tháng 4, 2012

Đại thắng Mùa xuân 1975: Thắng lợi của sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy oanh liệt mùa xuân 1975 là một trong hai sự kiện lịch sử vĩ đại nhất của nhân dân Việt Nam trong thế kỷ XX. Chỉ trong 57 ngày đêm (4-3 đến 30-4) tiến công và nổi dậy, quân và dân ta đã đập tan đội quân tay sai Mỹ đông hơn một triệu tên, đánh đổ chính quyền Ngụy đã từng tồn tại 21 năm, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Thắng lợi to lớn này đã khép lại một giai đoạn lịch sử chia cắt đất nước, mở ra một kỷ nguyên mới cho nhân dân Việt Nam: Dân tộc được độc lập, Tổ quốc được thống nhất, hòa bình, trường tồn, đi lên chủ nghĩa xã hội.

Việt Nam, một nước nhỏ và nghèo, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn và hiện đại của một siêu cường là đế quốc Mỹ, làm chấn động địa cầu, là sự kiện chưa từng có, khiến cho nước Mỹ bàng hoàng, thế giới kinh ngạc. Mỹ chưa bao giờ thừa nhận chúng thua, nhưng khi ta giải phóng hoàn toàn miền Nam trong mùa xuân 1975 đại thắng, thì Ních Xơn, một trong năm Tổng thống Hoa Kỳ, chua chát thú nhận: “Tấn thảm kịch Việt Nam đã làm tổn thương nước Mỹ, làm tổn hại chúng ta trong con mắt bạn bè nước ngoài, hạ thấp chúng ta trong con mắt đối phương. Nhưng nó làm tổn thương chúng ta nhiều nhất ở trong nước. Sự thất bại của chúng ta ở Việt Nam làm hổ thẹn một nước mà không mấy khi thất bại”. Và ngày nay “nước Mỹ đang trong cơn đau dữ dội của Hội chứng Việt Nam”(1).

Quân giải phóng vào Buôn Mê Thuột

Người chiến thắng, kẻ thua trận đã được minh định rõ ràng, chứ không phải chỉ Việt Nam tuyên truyền là mình chiến thắng. Có điều lạ là kẻ thua không biết vì sao họ thua, vì sao Việt Nam chiến thắng? Câu hỏi này cho đến nay vẫn còn bỏ ngỏ đối với một số nhà chính trị, quân sự, chuyên gia Mỹ. Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam là cuộc chiến tranh phi nghĩa, trái hẳn với nhân đạo, đối lập với nhân dân. Đã phi nghĩa thì những chiến lược gia Mỹ dù có thông thái, tài ba đến đâu cũng không thể giúp cho chính quyền Oasinhtơn vạch ra được một chiến lược, một kế hoạch đúng đắn. Vì họ luôn duy ý chí, không nắm được quy luật khách quan của chiến tranh và bị quy luật ấy chi phối, tác động, khiến binh lính Mỹ ở chiến trường luôn luôn bị động, phải hành động theo sự điều khiển của đối phương, phải đánh theo cách đánh của đối phương trong suốt cuộc chiến tranh. Song, yếu tố nào, nguyên nhân nào đưa nhân dân, dân tộc Việt Nam đến chiến thắng vẻ vang mang tầm vóc thời đại và ý nghĩa quốc tế to lớn đó?

Sư đoàn 2 tiến vào Đà Nẵng

Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân tố chính tạo nên sức mạnh Việt Nam và cũng là nguyên nhân quyết định nhất của chiến thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung, chiến thắng 30-4-1975 nói riêng. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào” là Người đã vận dụng bài học lịch sử chống ngoại xâm của ông cha ta từ ngàn xưa để huy động sức mạnh của toàn dân tộc vào cuộc kháng chiến và cùng với Đảng, Người đề ra đường lối giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền: Cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc do một Đảng lãnh đạo, một Nhà nước điều hành thống nhất. Đó là sự sáng tạo đặc sắc về Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng ta, dân tộc ta. Tiếp thu những kinh nghiệm của người xưa, chắt lọc, tìm ra cái mới đúng với quy luật được cả xã hội và bạn bè trên thế giới đồng tình ủng hộ, để đưa sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, cuối cùng hội tụ sức mạnh chiến thắng ngày 30-4-1975, làm nên một mốc son chói lọi trong lịch sử Việt Nam, là một sự sáng suốt rất không đơn giản. Từ trong đường lối chung đó, Đảng ta mà tập trung là Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đề ra nghệ thuật của cuộc kháng chiến là tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện; thắng địch từng bước, quân sự, chính trị song song trên ba vùng chiến lược, kết hợp nhiệm vụ giải phóng dân tộc với nghĩa vụ quốc tế, đánh Mỹ, nhưng phải bảo vệ hậu phương chiến lược miền Bắc và phe xã hội chủ nghĩa…

Quân giải phóng tiến vào Huế

Sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là nền tảng của mọi thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Không có nền tảng đó thì không có chiến thắng ngày 30-4. Nền tảng đó đã giáo dục, động viên toàn dân tộc đoàn kết thống nhất, phát huy cao độ nội lực, tự nguyện kháng chiến chống giặc ngoại xâm, diệt trừ nội phản, vì một lẽ sống còn: Độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Cũng chính nền tảng ấy đã tạo ra sức mạnh của hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa và hậu phương tại chỗ miền Nam, huy động được sức mạnh quốc tế và sức mạnh thời đại kết hợp với sức mạnh dân tộc thành sức mạnh tổng hợp để chiến thắng giặc Mỹ. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế và thời đại là một yếu tố mà nếu thiếu nó thì cuộc kháng chiến của nhân dân ta sẽ gặp muôn vàn khó khăn không dễ vượt qua. Chính trên cái nền tảng ấy mà Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã lãnh đạo, chỉ đạo toàn dân, toàn quân nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, đánh bại địch từng bước, đẩy lui chúng từng phần để tạo ra những thời cơ mới có lợi cho cuộc kháng chiến. Năm 1972, sau khi đánh bại quân chủ lực Ngụy Sài Gòn ở Quảng Trị, Đắc Tô – Tân Cảnh, Lộc Ninh và đánh thắng cuộc tập kích đường không bằng B52 của Mỹ vào Hà Nội – Hải Phòng, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari, ta đã tạo ra tình thế cách mạng trực tiếp rất thuận lợi. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chủ trương tiếp tục cuộc tiến công, đánh chiếm Thượng Đức (Quảng Nam) và Phước Long, qua đó rèn luyện bộ đội ta, thử sức quân chủ lực Ngụy, thăm dò thái độ của Mỹ khi ta đánh lớn. Cuộc tiến công Thượng Đức và Phước Long thắng lớn, tạo ra thời cơ mới, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định nắm lấy thời cơ tiến công và nổi dậy giải phóng miền Nam trong hai năm 1975, 1976; mở đầu đánh ở Tây Nguyên, mục tiêu then chốt là Buôn Ma Thuột. Nhờ quyết định và hành động đúng thời cơ, nên chỉ trong 33 tiếng đồng hồ từ ngày 10 đến 11 tháng 3, ta đã giải phóng Buôn Ma Thuột – một trung tâm chính trị, quân sự của Mỹ, Ngụy ở Cao nguyên Trung phần.

Cuộc nổi dậy của nhân dân Mỹ Tho

Hai ngày sau giải phóng Buôn Ma Thuột, quân ta tiếp tục tiến công địch từ ngày 14 đến 17-3, quân ta tiêu diệt Sư đoàn 23 Ngụy, giải phóng tỉnh Đắk Lắk. Ngụy quyền, Ngụy quân Sài Gòn hoang mang, dao động cực độ, vội vã rút chạy khỏi Tây Nguyên, mở đầu bước suy sụp mới của địch. Trận Buôn Ma Thuột từ thắng lợi của một chiến dịch trở thành thắng lợi chiến lược. Ngày 18-3, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương quyết định bổ sung phương án giải phóng miền Nam trong năm 1975 thay cho phương án giải phóng miền Nam trong hai năm trước đây và ra lệnh tiến công Huế, Đà Nẵng. Ngày 25-3, ta giải phóng Huế, Tam Kỳ, Quảng Ngãi; cùng trong ngày này, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương bổ sung quyết tâm giải phóng miền Nam trước mùa mưa 1975. Bốn ngày sau giải phóng Huế, ta giải phóng Đà Nẵng. Các ngày 30, 31 tháng 3 và ngày 1, 2, 3 tháng 4 ta giải phóng các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, quân cảng Cam Ranh. Dải đất miền Trung từ Thừa Thiên Huế đến Ninh Thuận và Tây Nguyên sạch bóng quân thù, làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng chiến lược hoàn toàn có lợi cho cách mạng miền Nam. Địch sa sút và tan rã lớn. Ta càng đánh càng mạnh. Cuộc chiến tranh cách mạng đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt một ngày bằng 20 năm.

Quân giải phóng đánh chiếm sân bay Xuân Lộc

Thời điểm mở cuộc Tổng tiến công vào sào huyệt cuối cùng của địch đã chín muồi, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương hạ quyết tâm giải phóng Sài Gòn – Gia Định trong thời gian sớm nhất – chậm nhất là trong tháng 4-1975 không thể để chậm. Thực hiện quyết tâm của Đảng, ngày 7-4, Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp ra mệnh lệnh cho 5 cánh quân: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút xốc tới mặt trận giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”. Các cánh quân của ta trong đêm 7-4 đã tăng tốc độ hành quân cả đêm và ngày đến vị trí tập kết chiến dịch đúng quy định. Ngày 9-4, Quân đoàn 4 bắt đầu tiến công địch trong thị xã Xuân Lộc; địch phản kích quyết liệt, buộc các đơn vị của ta phải thay đổi chiến thuật, rút khỏi Xuân Lộc, đánh vòng ngoài, diệt địch ở Túc Trưng, Kiệm Tân, theo đường 20 phát triển đánh địch ở ngã ba Dầu Dây, cắt đường số 1 về Sài Gòn. Ngày 14-4, cánh quân hướng Đông tiến công vào tuyến phòng thủ Phan Rang đến ngày 16 chiếm thị xã Phan Rang và sân bay Thành Sơn, diệt và bắt toàn bộ quân địch ở đây, giải phóng tỉnh Ninh Thuận. Ngày 19-4, Quân đoàn 2 giải phóng Phan Thiết và tỉnh Bình Thuận, thần tốc tiến vào Long Khánh, phối hợp với Quân đoàn 4 giải phóng Xuân Lộc. Cánh cửa thép hướng Đông đã mở. Trên các hướng Bắc, Tây Bắc, Đông và Tây Nam, quân ta dồn dập tiến công tiêu diệt các sư đoàn chủ lực địch phòng thủ vòng ngoài, áp sát lực lượng vào vùng ven đô. Nắm vững thời cơ và hành động đúng thời cơ thì sức ta một hóa thành mười, thành trăm, đánh đâu được đó, thắng như chẻ tre. Cùng trong ngày 14-4, Bộ Chính trị đặt tên cho chiến dịch giải phóng Sài Gòn là Chiến dịch Hồ Chí Minh, do Đại tướng Văn Tiến Dũng làm tư lệnh, đồng chí Phạm Hùng làm chính ủy. Ngày 22-4, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng điện chỉ đạo Bộ Chỉ huy chiến dịch: “Thời cơ quân sự và chính trị để mở cuộc Tổng tiến công vào Sài Gòn đã chín muồi. Ta cần tranh thủ từng ngày, kịp thời phát động tiến công địch trên các hướng, không để chậm. Nếu để chậm thì không có lợi về quân sự chính trị. Kịp thời hành động lúc này là bảo đảm chắc chắn nhất để giành thắng lợi hoàn toàn. Nắm vững thời cơ lớn chúng ta nhất định toàn thắng”. Và Bộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng Sài Gòn-Gia Định trước ngày 30-4-1975.

Sư đoàn 10, quân đoàn 3 đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất

Giữa lúc quân đội, chính quyền Sài Gòn đang trong cơn hoảng loạn, thì phi công Nguyễn Thành Trung lái chiếc máy bay F5E của Mỹ, ném bom Dinh Độc Lập và sau đó anh dẫn đường cho phi đội không quân ta dùng 5 máy bay A37 ném bom sân bay Tân Sơn Nhất. Trận bom của Nguyễn Thành Trung làm tăng thêm nỗi lo sợ và rối loạn nội bộ Mỹ, Ngụy. Tổng thống Mỹ G.R.Pho lập tức hủy bỏ chiến dịch di tản bằng máy bay có cánh cố định, chuyển sang di tản bằng máy bay lên thẳng mang mật danh “người liều mạng”. 5 giờ 30 phút ngày 30-4, Bộ Chỉ huy chiến dịch ra lệnh tổng công kích, đánh chiếm 5 mục tiêu then chốt đã lựa chọn trong nội đô: sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu, Dinh Độc Lập, Tổng Nha cảnh sát đô thành, Biệt khu thủ đô. Từ bốn hướng Đông, Bắc và Tây Bắc, Tây Nam, quân ta đồng loạt tiến công vào Sài Gòn phối hợp với quần chúng nhân dân nổi dậy, đến 11 giờ 30 phút ta làm chủ các mục tiêu và cắm cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng lên Dinh Độc Lập. Tổng thống Dương Văn Minh và nội các chính quyền Sài Gòn tuyên bố đầu hàng cách mạng không điều kiện. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Cùng với cuộc Tổng tiến công giải phóng Sài Gòn-Gia Định, quân ta đánh chiếm, giải phóng các đảo và quần đảo ở ven biển miền Trung và Trường Sa. Quân và dân các tỉnh miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long tiến công và nổi dậy diệt và làm tan rã Quân đoàn 4 Ngụy, giải phóng các tỉnh Long An, Bình Dương, Tây Ninh, Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc Trăng, Rạch Giá, Bạc Liêu, đảo Phú Quốc, Bà Rịa-Vũng Tàu. Ngày 1-5, ta tiếp tục giải phóng các tỉnh Mỹ Tho, Gò Công, Vĩnh Long, Chương Thiện, Cà Mau, Long Xuyên, Châu Đốc, Kiến Tường, Sa Đéc, Côn Đảo. Đến ngày 1-5-1975, toàn bộ các tỉnh, thành phố trên đất liền và các đảo, quần đảo ở biển Đông trên toàn miền Nam Việt Nam được hoàn toàn giải phóng.

Mũi tấn công của Quân đoàn 2 vào Dinh độc lập

Thắng lợi to lớn, toàn diện cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh để lại cho ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, trong đó có những bài học sau đây:

Một là, xây dựng Đảng vững mạnh, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ của cuộc kháng chiến

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta diễn ra vô cùng ác liệt, phức tạp trên nhiều mặt quân sự, chính trị và ngoại giao, trong nước và quốc tế. Kẻ địch có tiềm lực quân sự, kinh tế mạnh nhất thế giới, chúng tiến hành cuộc chiến tranh “Tăng cường tư bản”, sử dụng những vũ khí hiện đại nhất để chống lại nhân dân ta. Trong hoàn cảnh đó, Đảng ta đã bình tĩnh, kiên định mục tiêu cách mạng: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đánh giá đúng kẻ thù và so sánh đúng lực lượng đôi bên đối kháng, hạ quyết tâm chính xác, đề ra đường lối kháng chiến chiến lược và phương pháp cách mạng đúng, sáng tạo phù hợp với các thời kỳ biến chuyển của cuộc chiến tranh. Đường lối, chiến lược kháng chiến và phương pháp cách mạng đúng đắn đó đã dẫn dắt quân và dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, cuối cùng đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ, thu giang sơn về một mối. Để lãnh đạo quân và dân kháng chiến, trước hết và trên hết, Đảng ta luôn luôn trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, luôn luôn chỉnh đốn, tổ chức Đảng, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh toàn diện cả về tư tưởng, chính trị, tổ chức, mà hạt nhân là xây dựng “chi bộ 4 tốt” (miền Bắc), “3 tốt” (miền Nam), xây dựng đội ngũ đảng viên, cấp ủy các cấp trung thành với sự nghiệp của đảng, của dân, cần cù, dũng cảm, sáng tạo, gương mẫu, gian khổ không ngại, ác liệt không sờn, luôn luôn đi đầu trong chiến đấu và công tác, dẫn dắt quần chúng noi theo. Đó là những yếu tố tạo nên sức mạnh của Đảng lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Hai là, dựa vào dân, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, tiến hành cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện

Dựa vào dân, phát huy lòng yêu nước của nhân dân để hoàn thành nhiệm vụ của cách mạng là giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà và đi lên chủ nghĩa xã hội là quan điểm cơ bản của Đảng và Hồ Chủ tịch. Cuộc kháng chiến chống Mỹ phức tạp, khó khăn và quyết liệt trên nhiều mặt, chỉ có sức mạnh của toàn dân mới vượt qua được. Hồ Chủ tịch luôn dạy chúng ta bất kỳ tình huống nào cũng phải bám chắc lấy dân, dựa vào dân. Đảng ta dựa vào dân với niềm tin tưởng tuyệt đối “việc gì khó dân liệu cũng xong”. Qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ thắng lợi đã minh chứng hùng hồn hiệu quả của sức mạnh toàn dân. Dựa vào dân, Đảng ta đã giáo dục, giác ngộ chính trị cho nhân dân, tổ chức họ vào những đoàn thể kháng chiến, thực hiện phương châm toàn dân đánh giặc, toàn diện đánh giặc. Đồng thời, Đảng ta luôn chăm lo bồi dưỡng sức dân, làm cho đời sống kinh tế, văn hóa của nhân dân ngày càng nâng cao. Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy trong mọi lĩnh vực: xây dựng, củng cố vùng giải phóng, đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự và binh vận. Trên những lĩnh vực đấu tranh này, nhân dân là người sáng tạo, sáng kiến những phương pháp đấu tranh hay, hiệu quả, góp vào truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc những kinh nghiệm quý.

Ba là, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân và tính kỷ luật tự giác cho toàn quân, toàn dân


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đảng ta đặc biệt chú trọng xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công – nông và trí thức. Ở miền Bắc xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, ở miền Nam xây dựng Mặt trận Dân tộc giải phóng. Tuy hai mặt trận nhưng chỉ là cùng một nhiệm vụ đoàn kết toàn dân đánh Mỹ, xây dựng miền Bắc, giải phóng miền Nam. Đảng ta đã tập hợp được các lực lượng yêu nước vào một mặt trận chung, khối đoàn kết liên minh công - nông - trí thức luôn phát triển, củng cố vững chắc, đáp ứng nhu cầu của cuộc kháng chiến. Trên cở sở liên minh công – nông và trí thức do Đảng lãnh đạo, sức mạnh dân tộc được phát huy cao độ đã đánh bại các chiến lược chiến tranh của Mỹ và cuối cùng làm nên một Mùa Xuân 1975 đại thắng. Quá trình xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc thống nhất, đồng thời với mở rộng dân chủ, làm cho mọi người tự giác chấp hành mệnh lệnh, kỷ luật. Nhờ tính kỷ luật tự giác đó, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, các lực lượng quân sự, chính trị đã phối hợp nhịp nhàng, ăn ý, đúng thời gian quy định nên đã đưa cuộc Tổng tiến công và nổi dậy nhanh chóng giành thắng lợi./.

Đại tá Nguyễn Văn Minh

-----------

(1) Richard Nixơn – 1999: Chiến thắng mà không cần chiến tranh, Nxb. Simon and Schuster.

Nguồn: http://www.tuyengiao.vn/Home/lyluanthuctientutuong/2012/4/40884.aspx
Ảnh: http://lhu.edu.vn/?CID=117&NewsID=10824

Chiến thắng 30/4/1975 - Thành quả vĩ đại của dân tộc

Chiến thắng 30/4/1975 là mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, ghi dấu ngày toàn thắng của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Thắng lợi 30/4/1975 đã chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị kéo dài trên 100 năm của chủ nghĩa đế quốc, thực dân trên đất nước ta. Đó cũng là thắng lợi tất yếu, là thành quả vĩ đại của dân tộc ta suốt hơn một thế kỷ bền bỉ, anh dũng, kiên cường chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc. Từ giữa đêm trường nô lệ, ngay từ cuối thế kỷ XIX cho đến sau này, lòng yêu nước và tinh thần bất khuất chống ngoại xâm của người dân Việt Nam đã không ngừng được thể hiện qua các phong trào, các cuộc vận động yêu nước và các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp như phong trào Cần Vương, phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, phong trào Đông Du, cuộc vận động Duy Tân, các cuộc khởi nghĩa như khởi nghĩa Hương Khê, khởi nghĩa Yên Thế, khởi nghĩa Yên Bái… Ngày 3/2/1930 Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập đã tạo ra bước nhảy về chất cho phong trào yêu nước, phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Từ đây, cách mạng Việt Nam đã có một chính đảng chân chính lãnh đạo - chính đảng mác xít luôn kiên trì chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã được tôi luyện qua nhiều cao trào cách mạng. Và tháng Tám năm 1945, khi thời cơ đến, toàn dân tộc ta đã nhất tề nổi dậy tổng khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân. Tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp và kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, nhân dân ta đã bước tiếp con đường đấu tranh dưới ngọn cờ của Đảng để đi tới ngày toàn thắng 30/4/1975.

Nhân dân Sài Gòn dự mít-tinh mừng miền Nam hoàn toàn giải phóng. ảnh TL

Đại thắng mùa xuân 1975 đã chứng minh trí tuệ và tài thao lược của Đảng ta trong lãnh đạo và chỉ đạo chiến tranh cách mạng, cũng như chứng minh tinh thần quật khởi của người dân Việt Nam trong đấu tranh chống ngoại xâm. Từ đây mở ra một trang mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Với thắng lợi hoàn toàn của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược, non sông được thu về một mối, cả nước đi lên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ của nhân dân ta toàn thắng đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Thắng lợi này có tính thời đại sâu sắc, bởi đã chứng minh trong thời đại ngày nay, một dân tộc tuy đất không rộng, người không đông, kinh tế còn kém phát triển, nhưng biết đoàn kết muôn người như một, kiên quyết đứng lên dưới sự lãnh đạo của một đảng mác xít chân chính chiến đấu chống ngoại xâm thì hoàn toàn có thể đánh thắng những kẻ xâm lược hùng mạnh. Chiến thắng 30/4/1975 thực sự là bản hùng ca toàn thắng bất diệt, là nguồn động lực tinh thần to lớn hôm nay và mãi mãi về sau cho lớp lớp thế hệ người dân đất Việt.

Chiến tranh đã lùi xa. Sau 37 năm, từ hoang tàn đổ nát và bao đau thương mất mát do chiến tranh mang lại, từ một nền kinh tế kém phát triển của một đất nước đói nghèo lạc hậu vì chiến tranh liên miên tàn phá và hàng trăm năm bị thực dân đô hộ, lại phải gánh chịu những khó khăn to lớn do việc Mỹ và phương Tây bao vây cấm vận, vượt qua những hạn chế, sai lầm trong tư duy quản lý và thực tiễn điều hành đất nước, Việt Nam đã vươn mình trỗi dậy làm nên những kỳ tích. Nhất là từ năm 1986 đến nay, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã tiến hành công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập đất nước. Nền kinh tế đất nước liên tục tăng trưởng cao trong nhiều năm. Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng và từng bước được hoàn thiện. Cơ sở hạ tầng được xây mới và nâng cấp. Nước ta đã vượt qua ngưỡng đói nghèo, có sự ổn định về chính trị, trật tự an ninh xã hội được bảo đảm, đời sống người dân từng bước được cải thiện. Nền kinh tế nước ta vừa giữ vững độc lập tự chủ, vừa hội nhập sâu vào khu vực và thế giới… Những thành tựu to lớn nêu trên đã làm thay đổi diện mạo của đất nước, giúp cho thế và lực của đất nước ta ngày càng vững mạnh.

Sôi động trên đại công trường thủy điện Sơn La. ảnh gdtd.vn

37 năm qua, đồng hành cùng với cả nước, nền giáo dục của nước ta đã đạt được những thành tựu cơ bản và to lớn. Đến nay chúng ta đã xây dựng được một hệ thống giáo dục quốc dân với đầy đủ các cấp học, các trình độ đào tạo từ mầm non đến sau đại học. Nền giáo dục của chúng ta đang vững bước trên con đường đổi mới căn bản và toàn diện theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng để giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực ngày càng đáp ứng tốt hơn cho yêu cầu phát triển của đất nước.

Phát huy tinh thần chiến thắng 30/4/1975 bất diệt, mặc dù trước mắt còn nhiều khó khăn thách thức, nhưng với quyết tâm và sự nỗ lực to lớn phấn đấu đưa Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI vào cuộc sống, nhất định toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta sẽ khắc phục được mọi trở ngại, tiếp tục đưa đất nước ta đi lên trên con đường phát triển để sớm trở thành một đất nước dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Giáo dục & Thời đại

Bắt giữ Nguyễn Quốc Quân về tội "khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân"

Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, lệnh tạm giam 4 tháng đối với Nguyễn Quốc Quân để điều tra về tội “khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân” quy định tại Điều 84 Bộ luật Hình sự.

Đối tượng Nguyễn Quốc Quân. - Ảnh: VNA

Ngày 17/4/2012, tại cửa khẩu sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất, các cơ quan chức năng kiểm tra, làm thủ tục nhập cảnh cho công dân Mỹ tên Richard Nguyen hộ chiếu số 469267405.
Ngay sau đó, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an đã thi hành lệnh bắt, khám xét khẩn cấp đối với Richard Nguyen, tên thật là Nguyễn Quốc Quân, sinh năm 1953, nơi ở số 8276, Oakbark, Ct ElkGrove CA 95785, Hoa Kỳ, về hành vi tổ chức hoạt động khủng bố.

Tiếp đó, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, lệnh tạm giam 4 tháng đối với Nguyễn Quốc Quân để điều tra về tội “khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân” quy định tại Điều 84 Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Như đã biết, năm 1980, tại Califorlia, Hoa Kỳ, Hoàng Cơ Minh, nguyên là phó đô đốc Hải quân ngụy, đã thành lập tổ chức “Mặt trận quốc gia thống nhất giải phóng Việt Nam” tập hợp thành phần là ngụy quân, ngụy quyền của chế độ cũ với mục đích hoạt động vũ trang phá hoại, tiến tới lật đổ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tháng 6/1981, Hoàng Cơ Minh lập “căn cứ kháng chiến” tại Udon để thu nạp số thanh niên vượt biên đang ở các trại tị nạn Thái Lan, Indonesia… huấn luyện vũ trang để đưa về Việt Nam hoạt động phá hoại.

Ngày 10/9/1982, tại Udon, Hoàng Cơ Minh đã tổ chức đại hội lập ra Cơ quan trung ương đầu não, chỉ huy mọi hoạt động của Mặt trận có tên gọi là “Việt Nam Canh tân Cách mạng đảng”, gọi tắt là “Việt Tân”, thành viên Ban chấp hành trung ương Việt Tân đồng thời cũng là thành viên Ban lãnh đạo “Mặt trận”. Cương lĩnh của “Việt Tân” xác định mục tiêu của tổ chức là phá hoại nhằm lật đổ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Từ năm 1982 đến nay, “Việt Tân” tổ chức đưa hàng trăm tên xâm nhập vũ trang và không vũ trang về nước, thực hiện các đợt “Đông tiến 1”, “Đông tiến 2”, “Đông tiến 3”, “Sang sông” hoạt động bạo loạn, khủng bố phá hoại nhằm lật đổ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhưng đều bị Cơ quan An ninh phát hiện, xử lý.

Lợi dụng chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, những năm qua, “Việt Tân” tiếp tục cử hàng trăm tên xâm nhập về nước hoạt động dưới nhiều danh nghĩa khác nhau, tiêu biểu như: Nguyễn Quốc Quân, Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Thị Thanh Vân, Nguyễn Hải (Khunmi Somsăk), Trương Leon, Phạm Minh Hoàng, Võ Hồng, Lê Kin… để thực hiện nhiệm vụ của “Việt Tân” như: huấn luyện, tập hợp lực lượng, tuyên truyền chống nhà nước và các hoạt động khủng bố, phá hoại, gây rối trật tự an ninh, tán phát truyền đơn nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam…

Mặc dù đã bị Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đưa ra truy tố, xét xử về tội phản bội tổ quốc, hoạt động phỉ và tội khủng bố vào các năm 1987, 1988, 1990, 2008 nhưng tổ chức “Việt Tân” vẫn không từ bỏ hoạt động vũ trang, kích động bạo loạn, biểu tình chống phá Việt Nam. Vì vậy, Bộ Công an đã đưa tổ chức “Việt Tân” vào danh sách các tổ chức khủng bố và đã thông báo cho phía Hoa Kỳ biết vào ngày 4/4/2007.

Tháng 6/1986, Nguyễn Quốc Quân tham gia tổ chức “Việt Tân” tại Mỹ và đã được giao nhiều nhiệm vụ hoạt động cho tổ chức như: xây dựng phần mềm tin học quản trị đoàn viên và hồ sơ nhân sự, tham gia thành lập “Hội chuyên gia Việt Nam” do Vũ Quý Kỳ làm chủ tịch, huấn luyện phương pháp đấu tranh bất bạo động, phát triển người cho tổ chức thông qua giảng dạy kỹ năng mềm…..

Tháng 8/2006, Nguyễn Quốc Quân được phân công tham gia kế hoạch “sang sông”, lấy tên giả Ly Seng, trực tiếp xâm nhập về Việt Nam qua Campuchia qua cửa khẩu Mộc Bài, Tây Ninh để chỉ đạo Nguyễn Thị Thanh Vân, Trương Leon, Nguyễn Hải cùng đồng bọn tán phát truyền đơn của “Việt Tân” trên đường trốn chạy sang Campuchia đến Tây Ninh thì bị bắt giữ.

Ngày 13/5/2008, Nguyễn Quốc Quân đã bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tuyên phạt 6 tháng tù về tội khủng bố và bị trục xuất khỏi Việt Nam.

Từ cuối năm 2008 đến 2011, Nguyễn Quốc Quân thường xuyên sang Malaysia, Thái Lan để huấn luyện cho thành viên “Việt Tân” về kỹ năng bảo mật thông tin và phương pháp đấu tranh bất bạo động tại Việt Nam.

Ngày 17/4/2012, thực hiện ý đồ của tổ chức khủng bố “Việt Tân” Nguyễn Quốc Quân đã xâm nhập về Việt Nam bằng tên Richard Nguyen thực hiện kế hoạch kích động biểu tình, khủng bố nhằm phá hoại lễ kỷ niệm 30/4 và 1/5 năm 2012 tại Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh, thành phố.

Hành vi nêu trên của Nguyễn Quốc Quân đã phạm vào tội “khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân” quy định tại Điều 84 Bộ luật Hình sự. Thái độ của Nguyễn Quốc Quân đã được đánh giá là thành khẩn, cộng tác với cơ quan điều tra và thừa nhận hành vi phạm tội của mình và đồng bọn.

Cơ quan An ninh điều tra - Bộ Công an đang tiếp tục điều tra làm rõ hành vi phạm tội của Nguyễn Quốc Quân và đồng bọn để xử lý trước pháp luật.

Theo VNA

Thứ Năm, 26 tháng 4, 2012

Trung Quốc ngông cuồng đòi đánh Nga chỉ trong 2 tháng

Toàn bộ các khu vực Zabaikal, Viễn Đông và Primore trong 24 giờ đầu tiên sẽ nằm dưới sự kiểm soát của Trung Quốc. Các trận đánh ở Trung và Tây Sibir sẽ diễn ra trong thời gian dài hơn. Đến trung tuần tháng 4, quân Nga sẽ bị đẩy lui và lính Trung Quốc sẽ tiếp cận dãy núi Ural, “biên giới tự nhiên” với Nga…

“Hãy trả lại Sibir và Viễn Đông cho Trung Quốc”

Vào tháng 3/2012, trên diễn đàn trang điện tử quân sự của Trung Quốc Club.mil.news.sina.com.cn đã đăng một bài viết có tiêu đề: "Nga cần trả lại Sibir và vùng Viễn Đông cho Trung Quốc để tạo điều kiện phát triển tình hữu nghị và hòa bình trên toàn thế giới!". Những bài viết kiểu này đã trở nên đặc trưng đối với mạng internet Trung Quốc thời gian gần đây.

Trong bài viết, tác giả dẫn lại một câu nói được cho là của ông Putin: "Bất kỳ tổng thống Nga nào cũng cần làm tất cả để trả lại cho Trung Quốc những vùng lãnh thổ Viễn Đông của họ".

Tác giả khẳng định những vùng lãnh thổ Sibir và Viễn Đông từ phía Đông dải Ural từ xa xưa thuộc đã về Trung Quốc. Tại đây, các dân tộc thiểu số du mục phía Bắc Trung Quốc thời xa xưa đã từng sinh sống. Trong thời gian chuyến đi thăm của mình đến Liên Xô, Mao Trạch Đông đã từ chối xuống ga nằm tại khu vực biển Bắc (hồ Baikal). Một người tháp tùng hỏi Mao vì sao không rời con tàu. Mao mắng người này vì thiếu kiến thức lịch sử và "bằng giọng cáu giận nặng nề" nói rằng: "Ở đây mục phu Trung Quốc Xinchen Xu U đã chăn đàn gia súc của mình". Mao ngầm ý rằng vùng đất này là tổ quốc cổ xưa của nhân dân Trung Quốc, nay bị Liên Xô chiếm đóng bất hợp pháp.

Tác giả bài viết cũng khẳng định rằng nhiều triều đại Trung Quốc đã đặt các cơ quan quản lý hành chính ở "Sibir lạnh lẽo". Nhưng sau đó người Nga vượt qua dãy núi Ural, bắt đầu thẩm lậu sang phía Đông vào Sibir và tiếp tục tiến đến bờ biển Thái Bình Dương. Tác giả tỏ ra căm phẫn khi cho rằng địa danh Heiluntszyan của Trung Quốc đã bị đổi thành Nicolaievsk, một điều tương tự như việc Nga chiếm của Nhật Bản đảo Osima giàu có về gỗ và khí đốt thiên nhiên và đổi tên thành Sakhalin.

Cuộc xâm lấn của Nga đã gây ra "nỗi căm thù lịch sử", và nhiều người Trung Quốc sẽ không quên mối nhục này, tác giả viết. Và sự trỗi dậy của Trung Quốc đòi hỏi những vùng lãnh thổ Viễn Đông đã mất phải được hoàn trả.

Quan hệ Nga - Trung: Đối tác chiến lược hay sự dối trá chiến lược?

Tác giả tin chắc, Nga không có các nguồn nhân lực, tài chính, vật chất để kiểm soát được vùng Viễn Đông. Người Trung Quốc cần giành thế chủ động để lấy lại vùng lãnh thổ này. “Nếu Putin thực tế sẽ trả lại cho chúng ta những vùng đất đã mất, điều này sẽ có ảnh hưởng tốt đẹp đến mối ổn định quan hệ Trung-Nga. Đây sẽ là minh chứng của tình hữu nghị đích thực, sự tôn trọng lẫn nhau và tình đoàn kết giữa hai nước của chúng ta” tác giả bình luận.

Ở phần bình luận, rất nhiều độc giả đã ủng hộ bài viết với những lời lẽ kiểu như: "Việc lấy lại những vùng đất đã mất là nhiệm vụ của chúng ta!". Có người còn phân tích: “Cần trả cho Nga nhiều tỷ USD để mua những mảnh đất này, bởi vì sắp đến những trái phiếu của Hoa Kỳ sẽ biến thành những tờ giấy lộn. Đây là một viên đạn giết chết hai con thỏ: vừa tránh được những trái phiếu đang mất giá trị và đồng thời có được những vùng đất giàu khoáng sản”.

Tuy vậy, cũng có độc giả bày tỏ sự ngạc nhiên khi một trang mạng “đáng kính” như Sina.com.cn lại có thể đăng tải bài viết phi lý của một kẻ có đầu óc bệnh hoạn.

Kịch bản chiến tranh chống Nga

Không chỉ dừng lại ở những lời hô hào chung chung, trên các diễn đàn quân sự của Trung Quốc đã diễn ra những cuộc tranh luận hoàn toàn nghiêm túc về viễn cảnh của "cuộc thập tự chinh xe tăng mật tập" vào miền Đông nước Nga. Vào đầu năm 2012, nhiều trang mạng phát tán một kịch bản chi tiết về cuộc chiến Trung Quốc sẽ tiến hành nhằm chiếm đất của Nga.

Kịch bản này đặt ra giả thuyết, vào cuối tháng 2/2012, Trung Quốc sẽ bắt đầu các hoạt động quân sự xâm chiếm đóng các vùng Sibir, Viễn Đông và Zabaikal của Nga. Khu vực Trung và Tây Sibir sẽ là hướng tấn công chính. Những hướng khác sẽ phụ thuộc vào quân số, gồm Primore, Viễn Đông và Zabaikal.

Biên giới Trung Quốc kéo dài đến dãy Ural!

Theo các “chiến lược gia internet”, toàn bộ các khu vực Zabaikal, Viễn Đông và Primore trong 24 giờ đầu tiên sẽ nằm dưới sự kiểm soát của Trung Quốc. Các trận đánh ở Trung và Tây Sibir sẽ diễn ra trong thời gian dài hơn. Đến trung tuần tháng 4, quân Nga sẽ bị đẩy lui và các binh lính Trung Quốc sẽ tiếp cận dãy núi Ural, “biên giới tự nhiên” giữa Nga và Trung Quốc.

Thành phố Yakutsk sẽ bị chiếm và các tuyến đường BAM, Magadan, Irkutsk và Krasnoyarsk sẽ bị cắt đứt bởi các chiến dịch của lực lượng đổ bộ hàng không vào những ngày đầu cuộc chiến. Sau khi chiếm được các mỏ dầu và khí đốt, Trung Quốc trên thực tế sẽ kiềm chế các hoạt động của NATO nhằm ủng hộ Nga.

Vào cuối tháng 4, vùng Kamchatka và Chukotka sẽ bị chiếm đóng bởi chiến dịch của các đơn vị đổ bộ đường không. Quân Trung Quốc sẽ tiến công với tốc độ nhanh, từ 200 - 500 km mỗi ngày. Khác chiến thuật của những cuộc chiến tranh trước đây, Trung Quốc sẽ không tập trung quân sát biên giới Nga. Sau khi nhận các nhiệm vụ chiến đấu và lịch hành trình, các binh sỹ theo đội hình hành quân từ các vị trí của mình vào ban đêm với tốc độ cao tiến thẳng vào các điểm thực hiện nhiệm vụ tác chiến.

Các đơn vị và phân đội đụng độ với bính lính Nga sẽ độc lập thực hiện nhiệm vụ của mình. Các lực lượng chính sẽ hành quân đến các vị trí thực hiện nhiệm vụ chiến đấu đã định. Như vậy cuộc tấn công sẽ không bị chậm lại. Tiến độ của các chiến dịch sẽ đúng như kế hoạch. Việc sử dụng vũ khí hạt nhân sẽ không thể xảy ra trong những ngày đầu tiên của cuộc chiến, bởi vì tập đoàn đột kích sẽ hoàn toàn ở trên lãnh thổ Nga.

Trước khi cuộc chiến bắt đầu, hơn một nghìn các toán biệt kích trinh sát đặc nhiệm của Trung Quốc đã xâm nhập vào nước Nga dưới vỏ bọc thường dân để tiến hành trinh sát các cơ sở quân sự Nga. Trong những ngày đầu chiến tranh, các nhóm đặc nhiệm này sẽ chỉ điểm cho các đơn vị tên lửa chiến lược, và không quân Trung Quốc tiêu diệt các tổ hợp phòng không, kho vũ khí, các điểm chỉ huy ít được bảo vệ của Nga...

Tại các vùng lãnh thổ chiếm đóng, Trung Quốc sẽ tiến hành đổi đồng rúp ra đồng nhân dân tệ theo tỷ giá ưu đãi cho nhân dân địa phương, cung cấp các sản phẩm ăn uống và hàng hóa do mình sản xuất với giá rẻ hơn hai - ba lần so với giá mà những người Nga hiện nay phải mua.

Trong thời hạn ngắn, Trung Quốc sẽ bắt đầu xây dựng nhà ở và triển khai sản xuất trên các vùng lãnh thổ đã chiếm đóng. Những người gốc Nga từ thời điểm bị Trung Quốc chiếm đóng sẽ không chỉ được nâng cao mức sống của mình gấp hai - ba lần, mà còn có được công việc ổn định nhờ sự phát triển nhanh chóng của các vùng đất dưới sự quản lý của Trung Quốc.

Để ngăn chặn triệt để sự phản kháng từ người dân địa phương, Trung Quốc sẽ tiến hành hoạt động tuyên truyền ồ ạt với những khẩu hiệu kiểu như:

- “Chúng tôi giúp những người anh em Nga thoát khỏi bọn quan chức thối nát và lũ đầu sỏ trộm cướp!”
- “Sibir – chúng tôi sẽ trao trả cho những người dân Sibir” v..v và v.v…

Trên thực tế, lính Trung Quốc sẽ xử bắn những kẻ tham nhũng và kẻ tham ô công quỹ mà nhân dân cũng như các đơn vị tình báo Trung Quốc đều đã biết rõ. Một số quan chức không kịp chạy trốn sẽ phải hợp tác với Trung Quốc để bảo đảm an toàn cho bản thân. Và chỉ sau 2 tuần chiếm đóng, Trung Quốc đã thiết lập một trật tự mới trên vùng lãnh thổ cũ của Nga.

Những nguyên nhân dẫn đến chiến tranh Nga - Trung

Những nguyên nhân, theo dân mạng Trung Quốc, sẽ khiến cuộc chiến tranh với Nga là không tránh khỏi:

- Nhiều phần lãnh thổ Nga trong lịch sử thuộc về Trung Quốc và người Trung Quốc có quyền đòi lại chúng.

- Sự cần thiết mở rộng không gian sống, cũng như nhu cầu chảy bỏng về các nguồn dầu mỏ, khí đốt và nhiều nguồn tài nguyên khác.

- Tranh thủ sự yếu kém về kinh tế cũng như chính trị, sự thụt lùi của Nga về quân sự để tiến hành chiến tranh.

- Trung Quốc đã từng bị Liên Xô “vả vào mặt” trong những cuộc xung đột và mâu thuẫn năm 1969, 1982. Với bản tính “thù dai”, người trung Quốc không thể không “rửa nhục”.

Những biểu hiện chuẩn bị chiến tranh, theo quan sát của dân mạng Trung Quốc

- Các công trình xây dựng trục đường chính và các con đường dọc theo mặt trận tại các khu vực giáp biên giới với Nga để vận chuyển binh lính ở dạng đường 6-8 làn xe đã hoàn tất. Khả năng lưu thông như vậy của các xa lộ chẳng phục vụ điều gì khác ngoài việc nhanh chóng chuyển quân ra mặt trận.

- Trung Quốc đã chấm dứt các khoản đầu tư to lớn vào Nga, và sẽ không phải chịu những thiệt hại kinh tế nếu chiến tranh nổ ra.

- Người Trung Quốc đang ồ ạt học tiếng Nga dưới sự khuyến khích của nhà nước (chứ không phải là tiếng Anh).

- Hoạt động chuẩn bị chiến đấu của Quân đội giải phóng nhân dân Trung Hoa thường xuyên được hoàn thiện, sẵn sàng cho những cuộc chiến tranh quy mô lớn. Có lẽ, không phải ngẫu nhiên khi các cuộc thử nghiệm xe tăng mới và các phương tiện bọc thép khác chủ yếu được tiến hành ở vùng Nội Mông. Điều kiện khí hậu nơi đây rất giống khu vực Viễn Đông và Sibir của Nga.

KICHBU lược dịch. V.T biên tập.
Nguồn: Militaryparitet.com / Newsland.ru

Sự thật: TT Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Thanh Phượng và Ecopark

Nguyen Thanh Phuong

Nguyễn Tấn Dũng đã dùng quyền hành Thủ tướng để ký giấy trao dự án EcoPark cho công ty Việt Hưng và công ty này là đối tác chiến lược của VietCapital do Nguyễn Thanh Phượng - con gái của ông ta làm Chủ tịch Hội đồng Quản trị” là thông tin đúng hay sai?

-> Ruộng đất, nhìn từ chuyện cưỡng chế ở Văn Giang

Sau vụ cưỡng chế đất dánh cho dự án Ecopark ở Văn Giang, Hưng Yên, trên cộng đồng mạng Việt nam đã xuất hiện hình ảnh của một số văn bản được cho là bằng chứng xác nhận dự án Ecopark Hưng Yên có chủ đầu tư là một công ty của con gái Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, bà Nguyễn Thanh Phương.


Kết luận này này dựa trên việc công ty của bà Phượng và công ty chủ đầu tư dự án Ecopark đều có tên là Việt Hưng.

Kèm theo thông tin kể trên là những lời bình luận mang sắc thái tiêu cực về vai trò của thủ tướng đương nhiệm Nguyễn Tấn Dũng. Một trang tin vỉa hè có tên “Dân làm báo” tuyên bố: “Nguyễn Tấn Dũng đã dùng quyền hành Thủ tướng để ký giấy trao dự án EcoPark cho công ty Việt Hưng và công ty này là đối tác chiến lược của VietCapital do Nguyễn Thanh Phượng - con gái của ông ta làm Chủ tịch Hội đồng Quản trị”.

Thông tin này đã được phát tán với tốc độ chóng mặt trên mạng xã hội Facebook, kèm theo một làn sóng chỉ trích nhằm vào ông Nguyễn Tấn Dũng.

Tuy vậy, theo tìm hiểu của chúng tôi, những thông tin trên hoàn toàn sai sự thật. Cụ thể: Công ty Việt Hưng của bà Nguyễn Thanh Phượng và công ty Việt Hưng – chủ đầu tư Ecopark là hai công ty hoàn toàn khác nhau.

Dưới đây là các thông tin về 2 công ty này:

- Về công ty Việt Hưng Ecopark - Chủ đầu tư dự án tại Văn Giang, Hưng Yên. Tên gọi đầy đủ là ''CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THI VIỆT HƯNG'' có địa chỉ tại ''Khu đô thị và dịch vụ thương mại Văn Giang, Xã Xuân Quan, Huyện Văn Giang, Tỉnh Hưng Yên''. Đại dịên theo pháp luật chính là ông TGĐ Đào Ngọc Thanh.

Tham khảo: http://www.hungyenbusiness.gov.vn/Info.aspx?i=L0341339202&c=1

- Về công ty Việt Hưng của bà Phượng: Tên gọi đầy đủ là ''CÔNG TY CỔ PHẦN BẤT ĐỘNG SẢN VIỆT HƯNG''. Có đại chỉ tại ''Phòng 1501, Lầu 15, Cao ốc văn phòng Centrepoint 106-Nguyễn Văn Trỗi-Phường 8-Quận Phú Nhuận''.

Tham khảo: http://www.dpi.hochiminhcity.gov.vn/vie/webappdn/view.asp?id=4103008607&ht&loaihinh=DT&HienThi=1

Đây là hai công ty hoàn toàn khác nhau.

Dường như, sự trùng hợp về tên gọi của hai công ty đã bị một số đối tượng lợi dụng để phát tán tin đồn gây tổn hại đến uy tín của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

Theo tìm hiểu của chúng tôi, những thông tin sai trái về vụ việc này bắt nguồn từ blog cá nhân của Huỳnh Ngọc Chênh, một cựu cán bộ của báo Thanh Niên.

Vụ việc này cũng cho thấy một bộ phận thành viên cộng đồng mạng cần tiếp cận các thông tin một cách thận trọng, có kiểm chứng và đối chiếu từ nhiều nguồn thay vì bằng cảm tính và thói quen bầy đàn. Đây chính là một khe hở để các phần tử cơ hội lợi dụng và phát tán các thông tin sai lệch về tình hình Việt Nam.

V.T