Thứ Tư, 2 tháng 5, 2012

Kiều bào ủng hộ quân dân Trường Sa

Hôm qua (1/5), tại trụ sở Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài - Bộ Ngoại giao – đã diễn ra lễ tiếp nhận tiền của một số cá nhân, tổ chức người Việt Nam tại các nước Mỹ, Đức, Ba Lan, Hà Lan, Tây Ban Nha, Thái Lan gửi ủng hộ quân dân Trường Sa.


Hưởng ứng đợt phát động "Vì biển đảo thân yêu" của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài (Ủy ban), liên tục trong thời gian qua, nhiều cá nhân và tổ chức người Việt Nam ở nước ngoài đã thông qua Uỷ ban tích cực ủng hộ chia sẻ với quân dân huyện đảo Trường Sa.

Nhân dịp về tham dự cùng Đoàn công tác của Ủy ban ra thăm quân dân huyện đảo Trường Sa, một số cá nhân, tổ chức người Việt Nam tại Mỹ, Đức, Ba Lan, Hà Lan, Tây Ban Nha, Thái Lan đã chuyển tới Ủy ban số tiền tương đương 516 triệu VNĐ (theo tỷ giá ngày 1/5) để nhờ gửi ủng hộ quân dân Trường Sa.

Thay mặt lãnh đạo Ủy ban, ông Trần Công Thịnh - Phó Chánh Văn phòng Ủy ban - đã tiếp nhận số tiền trên. Ông Thịnh cảm ơn tình cảm, sự sẻ chia của các cá nhân và tổ chức kiều bào và hứa sẽ chuyển số tiền trên tới quân dân Trường Sa trong thời gian sớm nhất.

Hải Yến

Ngày 'Quốc hận' và trải lòng của một người bên kia chiến tuyến

Không thể quên thù hận đã là ngu xuẩn lắm rồi, nhưng ngu xuẩn hơn nữa nếu chúng ta lại truyền lại sự thù hận cho thế hệ sau để chúng tiếp nối sự thù hận mà chúng ta không thể quên được…

Nhân ngày Thống nhất Đất nước 30/4, REDS.VN xin giới thiệu với độc giả bài viết của Giáo sư Trần Chung Ngọc (cựu chiến binh VNCH, hiện đang định cư tại Mỹ), bày tỏ những suy tư của ông vể cái ngày lịch sử đầy tranh cãi trong cộng đồng người Việt ở xứ người.

Bài viết đã có sự biên tập nội dung của Ban quản trị REDS.VN. Độc giả có thể xem bài gốc trên trang SACHHIEM.NET với tựa đề “Ba mươi tháng Tư và tôi”.


“Nếu một người vẫn không thể quên thù hận, há chẳng ngu xuẩn lắm sao?” Đó là lời của Cổ Long trong đoạnkết của truyện kiếm hiệp “Cửu Nguyệt Ưng Phi”

Chiến tranh Việt Nam đã chấm gần 4 thập kỷ rồi, chiều dài của hơn một thế hệ. Tôi đồng ý với ông Cổ Long rằng đến bây giờ mà chúng ta không thể quên được thù hận thì quả thật là ngu xuẩn. Ở đây tôi muốn nói đến mối thù hận bất kể từ phía nào. Không thể quên thù hận đã là ngu xuẩn lắm rồi, nhưng ngu xuẩn hơn nữa nếu chúng ta lại truyền lại sự thù hận cho thế hệ sau để chúng tiếp nối sự thù hận mà chúng ta không thể quên được.

Trước hết tôi cần phải nói chút ít về tôi, dù cái tôi thật đáng ghét. Cá nhân tôi là một sĩ quan, xuất thân từ Khóa I Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định, đã phục vụ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong hơn 8 năm, đã cầm súng chống Cộng ở tiền tuyến, từ Quảng Bình (Tiểu đoàn 12) trước 1954, đến Qui Nhơn (Sư đoàn 22) và Kontum (Biệt khu 24) sau 1954. Và sau khi giải ngũ tôi cũng đã phục vụ trong ngành giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa cho đến ngày chót.

Vậy vào những thời đó, tất nhiên không ít thì nhiều tôi cũng đã chống Cộng, nhất là tôi đã đọc về những tội ác của Cộng sản đối với người dân, về cuộc cải cách ruộng đất, về Tết Mậu Thân v..v…trong những tài liệu của miền Nam và của Mỹ. Và tôi đã chạy trốn Cộng sản sang Mỹ vào cuối tháng Tư năm 1975. Nhưng kết cục của cuộc chiến đã đưa đến cho tôi một thắc mắc và ấm ức. Thắc mắc và ấm ức đó là:

“Miền Nam có hơn một triệu quân, một thời cộng với hơn nửa triệu quân Mỹ, với đầy đủ vũ khí, đạn dược, và có ưu thế tuyệt đối về máy bay chiến đấu, về B52 để trải thảm bom từ trên thượng tầng không khí, xe tăng, tàu chiến, trọng pháo, truyền tin và cả thuốc khai quang Agent Orange để cho Việt Cộng không còn chỗ ẩn núp v..v.. nhưng tại sao vẫn không thắng nổi đối phương để rồi Mỹ phải tìm cách Việt Nam hóa cuộc chiến, rồi “tháo chạy” [từ của Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng], và cuối cùng, Việt Cộng vẫn “cưỡng chiếm” [từ của báo chí chống Cộng hải ngoại] được miền Nam? Vậy ngoài yếu tố quân sự, những yếu tố nào đã quyết định cuộc chiến?

Phải chăng phe Quốc Gia của chúng ta có vấn đề về chính nghĩa, về chủ quyền? Phải chăng quân dân miền Nam không tích cực chống Cộng? Hay phải chăng yếu tố quyết định là truyền thống yêu nước của người dân Việt Nam? Thực ra thì Quốc Gia và Cộng sản bên nào có Chính Nghĩa? Bên nào hợp lòng dân và được dân ủng hộ? Ý chí và khả năng chiến đấu của binh sĩ hai bên ra sao? Khả năng chỉ huy của các cấp lãnh đạo? Và còn những gì gì nữa?”

Tại sao chúng ta lại thua? Đó là niềm ấm ức đã ám ảnh đầu óc tôi trong vài năm đầu sống ở Mỹ sau 1975. Trong thời gian này, vì phải bắt đầu lại cuộc sống từ số không nên không có thì giờ tìm hiểu, tôi vẫn không giải đáp được thắc mắc trên. Nhưng thắc mắc trên cứ ám ảnh đầu óc tôi, cho nên khi đời sống kinh tế gia đình đã ổn định, tôi đã để thì giờ tìm hiểu và đọc rất nhiều sách và tài liệu viết về cuộc chiến ở Việt Nam, phần lớn là sách Mỹ, sách Pháp, và vài ba cuốn sách Việt, thí dụ như “Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi” của Đỗ Mậu; “9 Năm Máu Lửa Dưới Chính Quyền Ngô Đình Diệm” của Nguyệt Đam và Thần Phong; “Đảng Cần Lao” của Chu Bằng Lĩnh”; Luận Án Tiến Sĩ “Giáo Sĩ Thừa Sai Và Chính Sách Thuộc Địa Của Pháp Tại Việt Nam (1857-1914)” [Christianisme et Colonialisme au Viet Nam, 1857-1914], Đại Học Paris, 1969, của Cao Huy Thuần; “Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” của Hồ Sĩ Khuê v…v…

Bài “Đầu Hàng” của Vân Xưa trong cuốn của Hồ Sĩ Khuê là bài tôi thích nhất. Xin đừng hiểu lầm tôi thích là vì VNCH “đầu hàng”, mà vì bài viết phân tích tình hình khá hay và đầy tình người. Lẽ dĩ nhiên tôi cũng có những kinh nghiệm bản thân về Cộng sản cũng như Quốc Gia trong thời chiến, vì tôi là Sĩ Quan “Tác Động Tinh Thần”, sau đổi thành “Chiến Tranh Tâm Lý”, của Tiểu Đoàn 12. Tôi cũng đã chứng kiến cuộc đảo chính hụt của Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông v..v… cũng như cuộc oanh tạc Dinh Độc Lập của hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử. Và sau cùng là cuộc đảo chánh năm 1963 của Dương Văn Minh v… v… Tôi cũng đã nhìn thấy những khuôn mặt sáng sủa, trẻ trung, đầy tương lai trong các lớp học tôi dạy, từ Trung Học đến Đại Học, nhưng khó mà có thể có tương lai vì trước sau gì các em cũng bị lôi cuốn vào cuộc chiến tương tàn.


Ngày nay, lịch sử đã rõ ràng. Với những kiến thức mới về cuộc chiến thì chúng ta đã rõ, cuộc chiến trước 1954 là cuộc chiến chống xâm lăng, xâm lăng của thực dân Pháp toan tính tái lập nền đô hộ trên đầu dân Việt Nam, với sự hỗ trợ về quân cụ, vũ khí rất đáng kể của đế quốc Mỹ.

Ngày 14/8/1945, Tổng Thống Pháp De Gaulle bổ nhiệm Tướng Leclerc làm Tổng Chỉ Huy lực lượng ở Đông Dương và chỉ định Thierry d’Argenlieu làm Cao Ủy để cắm lại lá cờ tam tài của chúng ta ở đó (pour y replanter notre drapeau). Và Mỹ đã giúp hơn 80% chiến phí cho Pháp trong mục đích thực dân này. Còn cuộc chiến hậu Geneva là cuộc chiến chống xâm lăng của Mỹ. Đây là kết luận của các học giả Tây phương, xét theo những sự kiện lịch sử chứ không xét theo cảm tính phe phái.

Thật vậy, Thứ Trưởng Ngoại Giao Mỹ, Walter Bedell Smith xác định trong bản Tuyên Ngôn tại Washington D.C. về Hiệp Định Geneva như sau:

“Trong trường hợp những quốc gia nay bị chia đôi ngoài ý muốn, chúng ta sẽ tiếp tục tìm kiếm giải pháp thống nhất qua bầu cử tự do, giám sát bởi Liên Hiệp Quốc để bảo đảm là bầu cử được thi hành nghiêm chỉnh” và “Hoa Kỳ sẽ tự kiềm chế, không đe dọa hay dùng võ lực để phá những sự Thỏa Hiệp”

Xác định như vậy nhưng Mỹ đã nuốt lời hứa và dùng võ lực để can thiệp ngay vào nội bộ Việt Nam.., dùng tay sai Ngô Đình Diệm để phá sự thống nhất của đất nước qua bầu cử tự do, rồi chỉ đạo cuộc chiến và phạm rất nhiều tội ác ở Việt Nam. Trong cuốn The United States In Vietnam: An Analysis In Depth Of The History Of America’s Involvement In Vietnam, hai Giáo sư đại học Cornell, George McTurnan Kahin và John W. Lewis, viết ở trang 59:

“Tuy Hoa Kỳ nói rằng “sẽ tự kiềm chế, không đe dọa hay dùng võ lực để phá những sự Thỏa Hiệp” nhưng điều hiển nhiên chúng ta thấy ngay sau đó là Hoa Kỳ đã sửa soạn dùng mọi phương cách khác để ủng hộ chế độ Sai Gòn [do Mỹ dựng lên] trong việc không tôn trọng những điều khoản trong Thỏa Hiệp”

Sự kiện là, Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm về để chống Cộng cho Mỹ ở Nam Việt Nam, và đơn phương từ chối không thi hành khoản tổng tuyển cử tự do trên toàn đất nước vào năm 1956 trong Hiệp Định. Tại sao? Vì Tổng Thống Eisenhower của Mỹ đã nhận định, nếu có một cuộc tổng tuyển cử tự do vào năm 1956 thì ông Hồ Chí Minh sẽ được ít nhất là 80% số phiếu. Vào thời đó, với uy tín của ông Hồ và Việt Minh sau trận Điện Biên Phủ, Việt Minh không cần phải tổ chức một cuộc bầu cử gian lận như Ngô Đình Diệm đã làm ở miền Nam với số phiếu ở Sài Gòn nhiều hơn số cử tri.

Tưởng chúng ta không nên quên là ngay từ sau Hiệp Định đình chiến 1954, Mỹ đã gửi Lansdale ra ngoài Bắc để phá hoại, tuyên truyền, và cổ võ giáo dân Công giáo di cư vào Nam với những khẩu hiệu như “Chúa đã vào Nam” và “Đức Mẹ đã di cư vào Nam” v..v. Vì vậy khoảng 700 ngàn Giáo dân Công giáo đã cùng với các “Chúa thứ hai” của họ ào ào kéo vào Nam.

Còn nữa, trong cuốn Chiến Tranh Việt Nam Và Văn Hóa Mỹ (The Vietnam War and American Culture, Columbia University Press, New York, 1991), hai Giáo sư ở đại học Iowa, John Carlos Rowe và Rick Berg, viết, trang 28-29:

Tưởng cũng nên nhớ lại vài sự kiện. Mỹ đã dính sâu vào nỗ lực của Pháp để tái chiếm thuộc địa cũ của họ, biết rằng kẻ thù là phong trào quốc gia của Việt Nam. Số tử vong vào khoảng nửa triệu. Khi Pháp rút lui, Mỹ lập tức dấn thân vào việc phá hoại Hiệp Định Genève năm 1954, dựng lên ở miền Nam một chế độ khủng bố, cho đến năm 1961, giết có lẽ khoảng 70,000 “Việt Cộng”, gây nên phong trào kháng chiến mà từ 1959 được sự ủng hộ của nửa miền Bắc tạm thời chia đôi bởi Hiệp Định Genève mà Mỹ phá ngầm. Trong những năm 1961-62, Tổng thống Kennedy phát động cuộc tấn công thẳng vào vùng quê Nam Việt Nam với những cuộc thả bom trải rộng, thuốc khai quang trong một chương trình được thiết kế để lùa hàng triệu người dân vào những trại (ấp chiến lược?) nơi đây họ được bảo vệ bởi những lính gác, giây thép gai, khỏi quân du kích mà Mỹ thừa nhận rằng được dân ủng hộ. Mỹ khẳng định là đã được mời đến, nhưng như tờ London Economist đã nhận định chính xác, “một kẻ xâm lăng là một kẻ xâm lăng trừ phi được mời bởi một chính phủ hợp pháp”. Mỹ chưa bao giờ coi những chính phủ tay sai mình dựng lên là có quyền hợp pháp như vậy, và thật ra Mỹ thường thay đổi những chính phủ này khi họ không có đủ thích thú trước sự tấn công của Mỹ hay tìm kiếm một sự dàn xếp trung lập được mọi phía ủng hộ nhưng bị coi là nguy hiểm cho những kẻ xâm lăng, vì như vậy là phá ngầm căn bản cuộc chiến của Mỹ chống Nam Việt Nam. Nói ngắn gọn, Mỹ xâm lăng Nam Việt Nam, ở đó Mỹ đã tiến tới việc làm ngơ tội ác xâm lăng với nhiều tội ác khủng khiếp chống nhân loại trên khắp Đông Dương.

Chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt, vậy mà 27 năm sau, Daniel Ellsberg còn viết trong cuốn Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon Papers, Viking, 2002, p.255:

“Theo tinh thần Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và theo những lý tưởng mà chúng ta công khai thừa nhận, đó là một cuộc ngoại xâm, sự xâm lăng của Mỹ”.

Năm 2006, Bác Sĩ Allen Hassan, một Bác sĩ đã phục vụ tại Việt Nam, đã viết cuốn “Failure To Atone” mà bản dịch tiếng Việt của Nhà Xuất Bản Trẻ dịch là “Không Thể Chuộc Lỗi” (Đúng ra, dịch đúng nghĩa phải là “tội”, tội ác, chứ không phải “lỗi”, lỗi lầm) nói về những tội ác của quân đội Mỹ ở Việt Nam. Sau đây là vài lời giới thiệu trong bản tiếng Việt của Nhà Xuất Bản Trẻ mà tôi mua được ở Việt Nam nhân chuyến cùng con cháu về thăm quê hương năm 2007:

Tại hội trường 8 Hội chợ sách Quốc tế Frankfurt ở Đức năm 2006, giữa các khu vự trưng bày sách rộng lớn và không khí giao dịch bản quyền náo nhiệt của các tập đoàn xuất bản hàng đầu thế giới là một gian hàng nhỏ với một điểm đặc biệt có một không hai: Gian hàng chỉ trưng bày và giao dịch bản quyền duy nhất một cuốn sách có tựa đề Failure To Atone – Không Thể Chuộc Lỗi (Tội) – với một poster lớn: “Nước Mỹ không thể chuộc lỗi về những gì đã gây ra trong cuộc chiến tranh Việt Nam! Sự thật chưa từng được tiết lộ của một bác sĩ tình nguyện người Mỹ tại Việt Nam”…

Khi chúng tôi hỏi tại sao lại lấy tên là Không Thể Chuộc Lỗi đặt cho cuốn sách, đại diện bản quyền của bác sĩ Allen Hassan trả lời:

“Mục đích của bác sĩ Allen Hassan khi viết cuốn sách này là muốn những người lính đã từng tham chiến tại Việt Nam và chính quyền Mỹ thật sự hiểu rõ những gì mà nước Mỹ đã gây ra cho người dân Việt Nam và lớn hơn rất nhiều những gì mà người Mỹ từng nghĩ. Nước Mỹ nhớ rất kỹ những gì người khác gây cho họ nhưng lại quên rất nhanh những gì họ đã gây ra cho những người khác. Người chết không thể sống dậy, người tàn tật mãi mãi tàn tật, và nỗi đau mãi mãi là nỗi đau….Khi đọc xong cuốn sách này, mọi người sẽ hiểu bây giờ bất cứ làm việc gì, nước Mỹ cũng không thể chuộc lại lỗi của mình đối với người dân Việt Nam”.

Trong cuốn Không Thể Chuộc Lỗi, bác sĩ Hassan đã đề cập đến chất độc da cam, nhưng đặc biệt, trong ấn bản Việt ngữ, ông đã viết thêm một chương về những hậu quả và di chứng nặng nề của chất độc da cam mà quân đội Mỹ đã sử dụng tại Việt Nam. Mỹ đã sử dụng bao nhiêu chất độc da cam ở Việt Nam? Thượng Nghị Sĩ Mỹ Gaylor Nelson đã phát biều:

Nước Mỹ đã trút xuống Nam Việt Nam một lương hóa chất độc hại tương đương với mức trung bình cho mỗi đầu người, kể cả phụ nữ và trẻ em, là 6 pound (gần 3 kg).

Di hại to lớn của chất độc da cam ở Việt Nam là điều hiển nhiên, không ai có thể chối cãi. Nhưng nước Mỹ đã muối mặt phủ nhận trách nhiệm. Đáng lẽ sau cuộc chiến, Việt Nam phải đưa Mỹ ra Tòa Án Quốc tế Xử Các Tội Phạm Chiến Tranh nhưng có lẽ tự biết thân phận của một nước nhỏ, có kiện cũng chỉ là “con kiến đi kiện củ khoai”.

Chúng ta hãy đọc thêm vài đoạn trong bài “ Chủ Nghĩa Khủng Bố Và Diệt Chủng Dân Tộc Việt Nam Của Mỹ 1945-1975” (American Terrorism and Genocide of the Vietnamese People, 1945-1974):

Những tội phạm chiến tranh thuộc Thủy, Lục, Không quân Hoa Kỳ đã tàn sát 3 triệu người ở Việt Nam, trong rất nhiều nơi như Mỹ Lai. Hầu hết các nạn nhân là đàn bà và trẻ con.

CIA có ngay cả một chương trình khủng bố chính thức của quốc gia Mỹ ở Việt Nam, được biết là “Chiến Dịch Phụng Hoàng” hay “Kế Hoạch Phụng Hoàng”. [Kế hoạch Phụng Hoàng còn được biết dưới tên “Kế Hoạch Ám Sát” (Douglas Valentine, The Phoenix Program, p. 191: “Phoenix was labeled an Assassination Program”).] Qua Kế Hoạch Phụng Hoàng, nhiều trăm ngàn người đã bị tra tấn đến chết trong những “trung tâm thẩm vấn” trên khắp Nam Việt Nam. Những trung tâm tra tấn này được dựng lên bởi Mỹ rõ ràng cho mục đích đó. Phụ nữ luôn luôn bị hãm hiếp như là một phần của tra tấn trước khi bị giết. Khủng bố, hãm hiếp và giết người hàng loạt một cách đại qui mô trên khắp miền quê là chính sách của tập thể Lục Quân, Không Quân, Thủy Quân Lục Chiến, Thủy Quân Hoa Kỳ. Cuộc tàn sát ở Mỹ Lai là một chiến dịch trong Kế Hoạch Phụng Hoàng.

Chính sách diệt chủng dân Việt Nam của Mỹ có nguồn gốc từ ngay sau Đệ Nhị Thế Chiến.

Mỹ đã ủng hộ Pháp trong toan tính lấy lại quyền cai trị đẫm máu của thực dân Pháp ở Đông Nam Á.

John Kerry, Trung Úy Thủy Quân, lãnh tụ của những cựu quân nhân Mỹ ở Việt Nam chống chiến tranh, làm chứng trước Ủy Ban Ngoại Giao của Thượng Viện năm 1971: “Tôi muốn nói rằng vài tháng trước ở Detroit chúng tôi có một cuộc điều tra trong đó có 150 quân nhân đã được giải ngũ trong danh dự đã làm chứng cho những tội ác chiến tranh phạm ở Đông Nam Á. Họ nói những câu chuyện của thời đó là chính họ đã hãm hiếp, cắt tai, chặt đầu, kẹp giây điện từ những bộ máy truyền tin vào nhưng cơ quan sinh dục rồi quay điện, chặt chân tay, làm nổ tan xác, bắn chơi vào các thường dân, triệt hạ cả làng theo kiểu của Thành Cát Tư Hãn, bắn trâu bò, chó, làm trò chơi, đầu độc các kho lương thực và hầu như là tàn phá toàn diện miền quê Nam Việt Nam, ngoài sự tàn phá thông thường của chiến tranh và sự tàn phá thông thường và đặc biệt của những cuộc bỏ bom trên đất nước này”.

Quá nhiều “con em của chúng ta” đã phạm phải những tội ác cuồng dâm chống nhân loại. Lính Mỹ tra tấn tù binh. Lính Mỹ hiếp người qua đường hậu môn, hãm hiếp và bạo sát đàn bà và con gái. Lính Mỹ tàn sát toàn thể đàn ông, đàn bà, trẻ con trong nhiều làng – kể cả con nít - ở nhiều, nhiều nơi như Mỹ Lai và Thanh Phong.

[Thanh Phong là tên ngôi làng mà nguyên Thượng Nghị Sĩ Robert Kerrey, (không phải là John Kerry) đã chỉ huy một toán SEALS 7 người vào tàn sát 21 người đàn ông, đàn bà và trẻ con trong làng vào tháng 2, 1969. Vào căn nhà lá đầu tiên, toán này đã cắt cổ một ông lão, vợ ông ta và 3 đứa cháu.]

Lực Lượng Đặc Biệt dạy binh sĩ của mình thi hành nhiệm vụ ở Việt Nam phải dùng tra tấn như thế nào là một phần trong sự thẩm vấn.

Chiến dịch Phụng Hoàng nổi tiếng, do CIA dựng lên để quét sạch hạ tầng cơ sở của Việt Cộng, đã tra tấn những người bị tình nghi như sau:

- Quay điện vào các bộ phận sinh dục của nam và nữ.

- Cắm vào tai một cái đũa gỗ dài 15 cm rồi đập dần đũa vào óc cho đến khi nạn nhân chết.

- Những người bị tình nghi cũng bị ném từ trên trực thăng xuống để làm gương cho những người tình nghi quan trọng khác phải khai, tuy đây có thể coi như là sát nhân đối với nạn nhân bị ném, nhưng cũng là một hình thức tra tấn đối với những người khác.

- Vi phạm Quy Ước Geneva, Mỹ trao tù binh cho đồng minh Nam Việt Nam của họ biết rõ rằng nhưng người này sẽ bị tra tấn, viên chức Mỹ thường có mặt trong cuộc tra tấn.

Cương quyết thi hành dịch vụ diệt chủng, Không Quân Mỹ phát động chiến dịch “Rolling Thunder” tấn công dân Việt Nam năm 1964. Riêng cuộc tấn công này đã thả xuống đất nước nhỏ bé nhiều bom hơn là toàn thể số bom dùng trong Đệ Nhị Thế Chiến.

Trong 5 năm tiếp theo, nhiều trăm ngàn người dân Việt Nam, đàn ông, đàn bà, trẻ con bị nghiền nát và thiêu sống bởi những phi hành đoàn của Không Quân Mỹ. Đất nước Việt Nam phải chịu đựng 22 tấn thuốc nổ cho mỗi 1.6 km vuông. Nghĩa là 660 kg chất nổ mạnh cho mỗi người, đàn ông, đàn bà và trẻ con.

Trong 13 năm chiến tranh ác ôn của Mỹ chống dân tộc Việt Nam, tổng cộng là 8 triệu tấn bom (bom Napalm và bom chùm) và chất độc khai quang màu Cam đã thả trên đất nước – và ít ra là 3 triệu người đã bị tàn sát.

Cùng với lò nướng thịt thổ dân Mỹ, lò nướng thịt người Việt Nam của Mỹ đã xếp Mỹ xuống đáy của địa ngục – cùng với những công ty nổi tiếng như Nazi của Đức, chính quyền Công Giáo Ustashi ở Croatia, quân lực Nhật Bản, quân lực Thổ Nhĩ Kỳ, những đoàn quân bạo dâm chiến thắng của Tây Ban Nha, những đoàn quân Mông Cổ, La Mã và những con quỷ diệt chủng như trên.

Trong khi đó thì những người Mỹ ái quốc, kỳ thị chủng tộc tiếp tục sống cái gọi là đời sống “bình thường”, hoàn toàn lãnh đạm với cuộc tàn sát đẫm máu được thi hành nhân danh họ, ăn nhậu trên những miếng thịt bò tái và xem TV, chơi “golf” và đi dự những “parties” trong khi những đứa trẻ Việt Nam bị thiêu sống trong làng mạc của chúng bởi những tên phi công trời đánh của chúng ta, và vô số phụ nữ thường dân Việt Nam bị hãm hiếp tàn bạo và toàn thể các gia đình bị bắn chết bằng súng liên thanh bởi những binh sĩ trời đánh của chúng ta.

Không chỉ những con quỷ Nazi Đức mới phạm tội diệt chủng. Chính quyền ác ôn và quân lực Mỹ của chúng ta cũng phạm tội diệt chủng. Hằng triệu người. Và tuyệt đại đa số nạn nhân là người dân thường không có ai bảo vệ. [Vậy mà có những người chống Cộng hải ngoại đòi đưa Cộng Sản ra Tòa Án Mỹ hay Quốc tế Xử Tội Phạm Chiến Tranh vì vụ Tết Mậu Thân ở Huế]

Hãy coi câu chuyện ở Mỹ Lai như là một thí dụ về người lính Mỹ anh hùng của chúng ta khi hành sự - tàn sát trẻ con và hãm hiếp con gái Việt Nam để làm cho thế giới yên ổn cho những công ty như Coca Cola và hãng dầu Standard.

Nhờ có sự kỳ thị chủng tộc kiêu căng, tự cho là công chính và không quan tâm của Mỹ mà người Việt Nam tiếp tục bị đau khổ. Năm 1985 người ta ước tính là một phần ba đất đai [Nam] Việt Nam bị nhiễm độc, vì Không Quân Mỹ đã dùng thuốc khai quang như Chất Độc Màu Cam. Điều này đã khiến cho Việt Nam nghèo nàn, đất đai bị ô nhiễm nặng và có đầy những trái bom chùm chưa nổ - và người dân bị khủng khoảng tâm lý. 30 năm chiến tranh diệt chủng được nối tiếp bởi gần 20 năm cấm vận của Mỹ. [Giáo sư Noam Chomsky cũng đã châm biếm, cho rằng Mỹ đã thắng một phần ở Việt Nam (A partial victory) vì đã thành công để lại cho Việt Nam một di sản tan hoang đất nước, khó có cơ hội phục hồi về xã hội và kinh tế… (Nhưng CS VN đã phục hồi được về xã hội và kinh tế, và còn tiến xa hơn trước)]

Trong những năm từ khi những binh sĩ Mỹ giết người, hãm hiếp, lực lượng SEALS [Sea, Air and Land Forces], của Thủy Quân bị đá ra khỏi Việt Nam một cách ô nhục, cái di sản ác ôn của Mỹ để lại vẫn tiếp tục có ảnh hưởng đến người dân. Chất độc Da Cam đã đưa đến nhiều vụ khuyết tật bẩm sinh trong những thế hệ người dân Việt Nam và nhiều trăm ngàn trường hợp chết về ung thư đã xẩy ra trong những người sống trong những vùng bị trải thuốc khai quang..

Những trái bom chùm chưa nổ đã tạo ra những bãi mìn không có họa đồ, làm cho mọi người sợ hãi không dám canh tác trong những cánh đồng có thể trồng trọt được và ruộng lúa. Những trái bom đó của Mỹ vẫn tiếp tục giết hại, làm chân tay tàn phế và bị tàn tật suốt đời cho nhiều ngàn trẻ con và người lớn Việt Nam.

“Thượng Nghị Sĩ Wayne Morse, (Đảng dân Chủ - Oregon), 1967: Theo sự phán xét của tôi, chúng ta sẽ trở thành kẻ có tội vì là sự đe dọa lớn nhất cho nền hòa bình thế giới. Đó là một sự thực xấu xa, và người Mỹ chúng ta không thích đối diện với nó. Tôi thật không muốn nghĩ rằng một trang sử của Mỹ sẽ được viết ra liên quan đến chính sách vô pháp của chúng ta ở Đông Nam Á”.

.......... mời các độc giả đọc tiếp trên trang http://sachhiem.net/TCN/TCNts/TCNts040.php

Thứ Tư, 25 tháng 4, 2012

Chuyện tình kỳ lạ của đại tá tình báo Phan Mạc Lâm

Mảnh giấy bạc là cuốn tiếu thuyết chiến tranh của nữ nhà văn trẻ Nguyễn Thị Thu Thủy đã tạo nên sự ngạc nhiên cho giới cầm bút và công chúng quan tâm đến văn học trẻ. Trong hơn 300 trang sách, tác phẩm đã đưa ra câu chuyện kỳ lạ về cuộc đời của một nhà tình báo trong thời kỳ chống Mỹ.

Cuộc tình giữa hai chiến tuyến

Nhân vật chính đồng thời cũng là một nhân vật có thật mang tên Mạc Lâm và cô y tá Mary Hương. Mạc Lâm làm việc tại bộ phận khai thác xét hỏi tù binh còn Mary Hương là tình báo viên được quân đội Pháp cài lại. Họ gặp nhau tại thời điểm Đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh đưa không quân ra bắn phá Miền Bắc XHCN hòng ngăn chặn công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của Việt Nam. Câu chuyện được hư cấu từ một nguyên mẫu có thật: Đại tá Phan Mạc Lâm, nguyên Chánh văn phòng Tổng cục 2.

Như nhiều câu chuyện chiến tranh khác, không gian nghệ thuật đầu tiên xuất hiện trong Mảnh giấy bạc là một bệnh viện thời chiến nhưng ở đâu đó, “chất thơ” vẫn len lỏi trong từng trang viết của một tác giả trẻ: Sáng nay, tiếng chuông đồng hồ thánh thót. Tôi vừa thức dậy thì cũng là lúc nghe được tiếng bước chân nhè nhẹ và mùi hương bồ kết quen thuộc nồng nàn ngai ngái của Hương và chúng tôi đã bắt đầu nói về cuộc chiến… Khoảng cách dường như gần lại…. Cái khoảng cách bên giường bệnh ấy gần gũi giữa người y tá và bệnh nhân, gần gũi giữa hai con người trẻ tuổi, nhưng là một hố sâu thăm thẳm bị ngăn cách bởi chiến tranh khi cả hai đều là tình báo viên và định mệnh đẩy họ trên hai chiến tuyến khác nhau.

Nhà văn Nguyễn Thu Thủy

Đôi lúc, người đọc cứ ước gì đây không phải là cuốn tiểu thuyết hư cấu từ những ký ức có thật của một trùm tình báo, mà chỉ đơn giản là hư cấu trong trí tưởng tượng của tác giả, biết đâu sẽ lại có một Thiếu nữ đánh cờ vây thứ hai made in Vietnam, hoặc một Người thứ 41 nữa, với một mối tình đau đớn, nghiệt ngã và mong manh trên hai bờ chiến tuyến.

Bước đi táo bạo của một người trẻ

Ngoài những trang viết hồi hộp về những màn đấu trí, màn kịch quen thuộc trong nghề tình báo, Mảnh giấy bạc còn là một kho tư liệu chiến tranh sống động với quá trình lựa chọn, đào tạo một sỹ quan tình báo của Quân đội nhân dân Việt Nam được miêu tả tỉ mỉ. Tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy sinh năm 1982, là một nhà báo hiện công tác tại báo Vĩnh Phúc. Cuốn sách được chị viết trong ba năm và chỉ đọc qua cũng đủ biết tác giả đã mất nhiều công sức như thế nào để làm việc với kho tư liệu khổng lồ.


Chị chia sẻ “Trong quá trình viết, tôi thường xuyên phải ra vào bệnh viện để lấy thêm thông tin trực tiếp từ nhà tình báo, đại tá Phan Mạc Lâm. Lúc ấy ông rất yếu, trong thời gian dài chỉ nằm trên giường bệnh. Hôm nào tôi may mắn thì nói chuyện được với ông, còn không thì đành về tay không vì sức khỏe không cho phép. Cũng có lần tôi đã về Nghệ An là nơi sinh của ông để tích lũy thêm tư liệu và lấy cảm xúc. Cơ quan cách nhà bốn chục cây số, ban ngày tôi bận việc, nên phần nhiều chỉ có thể viết được vào ban đêm. Có hôm say viết quá thức trắng đến sáng”.

Đó là thái độ làm việc nghiêm túc đến mức đáng ngạc nhiên của một tác giả thế hệ 8x đi sâu vào đề tài chiến tranh, đặc biệt là chiến tranh tình báo. Nhà văn Phạm Ngọc Tiến, nhận xét: “Một tác giả trẻ viết về đề tài chiến tranh là điều rất đáng trân trọng. Bởi vì điều nguy hiểm nhất đối với những người lính đã đi qua chiến tranh là sự lãng quên. Mà tôi thường phần nhiều bắt gặp sự lãng quên của lớp thế hệ trẻ nói chung và các tác giả trẻ nói riêng. Cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Thị Thu Thủy là một sự tôn vinh đối với những con người đã hy sinh tuổi trẻ và cả tính mạng cho đất nước”.

Còn tác giả của Dị hương, đại tá-nhà văn Sương Nguyệt Minh sau khi đọc cuốn tiểu thuyết cho rằng: “Viết tiểu thuyết đề tài chiến tranh đối với những người đã từng đi qua cuộc chiến đã là một điều khó, đối với một nhà văn trẻ lại còn khó hơn khi họ không có chút mường tượng nào về chiến tranh. Mảnh giấy bạc của Nguyễn Thị Thu Thủy đã chứng tỏ cô rất bản lĩnh trong thị trường văn chương hiện nay”.

Di Li

Thứ Sáu, 20 tháng 4, 2012

Việt Nam từng đánh Trung Quốc tơi bời trong lịch sử phong kiến

Người Việt Nam thường nhớ tới bài thơ thần "Nam quốc sơn hà" của Lý Thường Kiệt, nhưng có thể chưa nhiều người nhớ tới “Phạt Tống lộ bố văn” của ông.

Danh tướng Lý Thường Kiệt qua nét vẽ theo phong cách huyền sử. (Có tài liệu nói rằng, Lý Thường Kiệt là thái giám nên không để râu, tuy nhiên, để giữ hình ảnh võ tướng, ông thường đeo râu giả).

Trong kháng chiến chống Mỹ, có những tổ chiến đấu của một lực lượng tinh nhuệ đã vào tận căn cứ địch để phá hủy các máy bay hiện đại (căn cứ....). Sớm hơn rất nhiều, tổ tiên ta từ ngàn năm trước đã chủ động mở chiến dịch quy mô lớn với nhiều chục ngàn quân, đánh vào nơi xuất phát của các cánh quân xâm lược. Người chỉ huy các cánh quân ấy là Lý Thường Kiệt.

Lý Thường Kiệt là tôi trung của ba triều vua nhà Lý (Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông và Lý Nhân Tông). Ông cũng là người chỉ huy của ba chiến dịch bất hủ: đánh vào Châu Khâm, Châu Liêm 1075-1076 và phòng thủ ở ở sông Như Nguyệt năm 1076, cũng như đánh đánh bại sự xâm lược của quân Chiêm Thành 1069.

Nhà Lý ở nước ta hình thành từ khi vua Lý Công Uẩn lên ngôi năm 1009 và 1010 định đô ở Thăng Long. Các triều vua tiếp tục ổn định nhiều mặt trong nước, nhưng hai đầu biên giới phía Bắc, phía Nam thường bị dòm ngó, quấy nhiễu.

Vốn từ năm 1070 vua quan nhà Tống đã tính kế xâm lược nước ta, chuẩn bị binh lực, lương thực, dùng người thông tỏ địa hình. Trước đó, ở phía Nam, qua việc Chiêm Thành đánh lên năm 1069, nhà Tống thu thập được số liệu về nước ta.

Đối phó với kẻ thù hùng mạnh bấy giờ là quân Tống giai đoạn 1073 trở đi, Lý Thường Kiệt đang trông coi cả việc văn, việc võ, tức cả về chính trị lẫn quân sự của triều Lý Nhân Tông, đã coi sự đoàn kết, tập trung sức mạnh từ triều đình đến toàn dân, từ kinh đô đến biên ải là kế lâu dài.

Từ tháng 10/1075 đến tháng 3/1076, quân dân nhà Lý đã triển khai tiến công trước để tự vệ vào các căn cứ quân sự của nhà Tống ở Châu Ung (Quảng Tây), Châu Khâm, Châu Liêm (Quảng Đông)...

Năm 1072, vua Lý Thánh Tông mất, vua Lý Nhân Tông lên ngôi còn nhỏ tuổi, vua Tống Thần Tông và đại thần Vương An Thạch quyết tâm nam chinh. Đến năm 1075 nhà Tống đã tập kết lực lượng ở các căn cứ trên. Về phía ta, năm 1075 đã khẳng định ý đồ của địch qua nhiều nguồn tin giá trị do có kế hoạch nắm địch từ xa và đi sâu.

Ngày 27/10/1075, Lý Thường kiệt huy động hơn 100.000 quân, chia thành hai đạo tấn công: đạo quân bộ do các tù trưởng Tôn Đản, Lưu Kỉ, Hoàng Kim Mãn, Thân Cảnh Phúc, Vi Thủ An chỉ huy đánh các trại biên giới; đạo quân thủy do Lý Thường Kiệt chỉ huy, vượt biển đánh Khâm Châu, Liêm Châu rồi cùng phối hợp tiến đánh Ung Châu.

Lý Thường Kiêt đánh Tống bên kia biên giới. Tranh minh họa 

Trên đường tiến quân, Lý Thường Kiệt cho phân phát “Phạt Tống lộ bố văn” kể tội vua quan nhà Tống, kêu gọi nhân dân ủng hộ hành động tự vệ chính đáng của quân dân Đại Việt. Quân ta chiếm Khâm Châu 31/12/1075, Liêm Châu 02/01/1076, Ung Châu 01/03/1076 phá hủy căn cứ, kho tàng... sau đó chủ động rút về, gấp rút chuẩn bị kháng chiến.

Mười tháng sau thất bại ở Ung Châu, dựng cầu phao đóng bè, chuẩn bị vượt sông tiến về Thăng Long. Nắm vững địa hình, có chuẩn bị sẵn, quân ta với 60.000 người do Lý Thường Kiệt chỉ hủy, lần lượt đánh bại hai cuộc vượt sông lớn của địch, buộc chúng phải co cụm và chờ tăng viện.

Cuối tháng 2, quân ta phản công, đánh đêm, vượt sông đánh úp diệt quá nửa cụm quân địch ở Như Nguyệt, buộc địch vào thế cùng lực kiệt, phải xin rút quân, từ bỏ âm mưu xâm lược nước ta.

Chiến thắng Như Nguyệt còn đọng mãi với lời thơ Nam quốc sơn hà:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định mệnh tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

Nghĩa là:

Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời

Lý Thường Kiệt, cậu bé Ngô Tuấn ngày nào, đã trải qua bao gian khó trong suốt hơn 80 năm trên đời để có những chiến công trên.

Nhà văn Hoàng Quốc Hải, trong tác phẩm “Tám triều vua Lý” xuất băn năm 2010, tập 2, trang 527, mượn lời một hòa thượng nói với tướng quân Ngô An Ngữ, bố Ngô Tuấn khi Ngô Tuấn lên 7 tuổi: “Cậu bé này quãng đầu đời gặp nhiều trắc trở với những nỗi buồn vĩ đại... Song cũng vì cái nhẽ trắc trở ấy mà cậu trở nên một bậc anh tài hiếm thấy trong lịch sử nước nhà. Chí làm trai đừng có ngại những thác ghènh và cả sự vấp ngã”.

Ba năm sau lời nhà sư thì Ngô Tuấn mất cha, và bốn năm sau mất mẹ. Khi bước vào tuổi hai mươi, sắp đến ngày cưới thì nhạc phụ ốm nặng, phải cưới chạy tang, cưới vợ được ba ngày thì làm lễ tang nhạc phụ. Những tưởng tình vợ chồng của tuổi trẻ có thể làm vơi nỗi buồn, nhưng rồi giữa lúc đang hướng tới hạnh phúc lứa đôi thì vua có chiếu sung Ngô Tuấn vào chức Hoàng môn chi hậu (quan hoạn) và ban quốc tính-mang họ Lý.

Cuộc đời vui buồn của Lý Thường Kiệt đem lại bao suy nghĩ cho nhiều thế hệ. Nhớ đến ông là nhớ đến bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước Việt.

Nhớ đến ông, một người mồ côi bố rồi mẹ khi 7 tuổi và 10 tuổi, đã không ngừng học tập, rèn luyện trong cuộc sống, công việc và chiến trận, vượt lên những trắc trở nhiều khi giằng xé tâm can. Nhớ đến tinh thần chủ động tấn công của quân dân nhà Lý và sự phòng thủ vững vàng từ thể hiện lòng dân. Đang trông coi cả văn võ triều đình, tính đến sự xâm lược của giặc, đã thuyết phục quan Lý Đạo Thành trở lại coi việc văn (chính trị) để ông tập trung cho giai đoạn chống giặc 1075-1076. Đấy chính là tâm nguyện đoàn kết vì nước của ông.

Văn Tuấn - http://quocphong.baodatviet.vn/Home/QPCN/Ly-Thuong-Kiet-voi-chien-dich-quan-su-tao-bao/20124/205169.datviet

Thứ Ba, 17 tháng 4, 2012

Cô học trò nghèo được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tặng bằng khen

Mẹ mất sớm, gia cảnh khốn khó, nhưng em Trần Thị Ngát, học sinh lớp 12C8, Trường THPT A Hải Hậu, huyện Hải Hậu (Nam Định), 12 năm liền là học sinh giỏi toàn diện. Mới đây em còn vinh dự được nhận bằng khen của Thủ tướng Chính phủ.

Cô học trò Trần Thị Ngát sinh ra trong gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, tuổi thơ của em trải qua nhiều vất vả, thiệt thòi. Năm lên 12 tuổi, mẹ em mất, bố một mình vừa lo tiền trả nợ sau những lần chạy chữa cho mẹ, vừa lo cho ba con ăn học.


Nhìn những tập giấy khen không còn chỗ treo mới thấy bảng thành tích học tập đáng nể của cô học trò nghèo.

Ngát là con thứ hai trong gia đình, chị gái Ngát đang theo học Trường ĐH Kinh tế Thái Nguyên và một em nhỏ đang học lớp 3. Từ lúc mẹ mất, cuộc sống gia đình vốn đã khó khăn lại càng bấp bênh hơn. Hàng ngày, Ngát đạp xe hơn 8 km đến trường, sau mỗi buổi đi học về, em phụ giúp bố làm những công việc vặt trong nhà, rồi cơm nước, đón em đi học về, thời gian còn lại Ngát mới tranh thủ học bài.

Thấu hiểu hoàn cảnh của gia đình, nhiều lúc không có tiền đóng học, thương bố một mình đi làm thuê khắp nơi nuôi ba chị em ăn học, Ngát đã định bỏ học đi làm thuê giúp bố trang trải nợ nần. Nhưng nhờ sự động viên, khích lệ của bố và các thầy cô giáo cùng nỗ lực của bản thân, Ngát đã gặt hái được những thành tích ấn tượng trong học tập. Suốt 12 năm học, Ngát luôn là một học sinh giỏi toàn diện của trường, được thầy cô, bạn bè xem là một tấm gương sáng trong học tập và các hoạt động của Đoàn trường.



Đi học về là Ngát giúp bố làm những công việc trong nhà.

Tháng 12/2011, Ngát được nhà trường chọn làm gương mặt tiêu biểu đi dự Đại hội thi đua yêu nước lần thứ 8, để báo cáo điển hình về học sinh “nghèo vượt khó vươn lên”. Cũng tại Đại hội này, em đã vinh dự nhận được bằng khen “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Thủ tướng Chính phủ trao tặng.

Ngát tâm sự: “Dù hoàn cảnh nhà em khó khăn, nhưng bố em và các thầy cô trong trường luôn động viên và quan tâm, tạo điều kiện cho em rất nhiều trong học tập. Bố em còn bảo hạnh phúc lớn nhất của bố là thấy em học thật giỏi. Chính vì vậy mà em luôn nỗ lực và phấn đấu hết mình trong học tập và hoạt động của trường…”.

Nói về cô học trò nghèo đầy nghị lực của mình, thầy Nguyễn Trung Hiếu - giáo viên chủ nhiệm em Ngát chia sẻ: “Ngát không chỉ học giỏi, mà còn tham gia rất tích cực trong các hoạt động Đoàn đội. Là một tấm gương sáng cho các học sinh trong trường noi theo…”.


Ngát chỉ bảo em trai học bài.

Hiện này Ngát đang là lớp trưởng - bí thư lớp 12C8, là lớp chọn chuyên khối D của Trường THPT A Hải Hậu. Trong các môn học thì em học tốt nhất là môn Tiếng Anh, ngoài ra các môn khác em đều học giỏi. Điều đó được chứng minh bằng những tập giấy khen của em từ lúc bắt đầu đi học dán kín cả căn nhà của bố con đang ở.

Để đạt được những thành tích học tập cao như vậy, cô học trò nghèo luôn có mục đích rõ ràng, trên lớp chỗ nào không hiểu bài là em nhờ thầy cô giảng lại ngay, không nên học lệch, học tủ. Đồng thời em cũng mượn thêm sách vở bạn bè và thư viện trường để đọc, tìm hiểu thêm.

Thầy Lê Văn Trường - phó hiệu trưởng Trường THPT A Hải Hậu cho biết: “Ngát là một học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn của trường, dù gia đình nghèo khó vất vả, nhưng em luôn là một tấm gương sáng trong học tập và các hoạt động của trường. Có thể nói em là một tấm gương điển hình của trường về nghèo khó học giỏi…”.

Chia sẻ ước mơ sau này của mình, Ngát tâm sự: “Hiện tại em đang tập trung cho kỳ thi tốt nghiệp THPT, còn về kỳ thi Đại học thì em đã đăng ký vào Khoa Kế toán Trường ĐH Hà Nội, ước mơ sau này của em sẽ là làm một doanh nhân thật thành đạt để có thể giúp bố trả nợ và lo cho em trai ăn học…”.

Ước mơ của cô học trò nghèo có có thành hiện thực không khi kinh tế gia đình đều dựa vào một mình bố em lo liệu cùng với khoản nợ hơn 80 triệu đồng, mỗi tháng gánh hơn 600 nghìn tiền lãi, còn phải chu cấp cho 3 đứa con ăn học và các khoản chi tiêu trong gia đình.

Anh Trần Văn Tích, bố em Ngát tâm sự: “Thật sự gia cảnh nhà tôi rất khó khăn, từ lúc vợ tôi bị bệnh tôi chạy vạy vay mượn khắp nơi, đến căn nhà bố con đang ở cũng phải mang đi thế chấp. Nhưng bệnh mẹ cháu vẫn không qua khỏi. Giờ tôi chỉ biết cố gắng hết sức để lo cho các con có thể ăn học đến nơi đến chốn…”.


Ngát cùng bằng khen của Thủ tướng Chính phủ trao tặng.

Chia tay Ngát ra về, nhìn cô bé với nước da ngăm đen, đôi mắt ánh lên một niềm tin cùng câu nói khẳng định của Ngát: “Em sẽ quyết tâm thi đỗ đại học, vì đó là con đường duy nhất để em có thể giúp được bố và gia đình…”. Và con đường phía trước của em còn nhiều khó khăn vất vả, nhưng chúng tôi thầm chúc cho em sẽ đạt được ước mơ của mình...

Trần Huệ - Đức Văn

Vì sao Việt Nam xuất hiện nhiều “cháu” tướng Nhanh, con ông nọ bà kia?

"Lái xe vi phạm, công an “tuýt còi”lập tức lái xe gọi điện cho người quen. Người quen lại gọi cho công an và công an để cho đi…".


Ngày 13/4, một thanh niên tên là Hoa Văn Phương (32 tuổi, ở Cát Hải, TP. Hải Phòng) khi bị tổ công tác 141 yêu cầu dừng xe và bị xử lý vi phạm giao thông đã lộng ngôn thách thức tổ công tác, luôn miệng lăng mạ, chửi bới đồng thời không quên khoe mình có quan hệ với những lãnh đạo nhà nước.

Trước đó, cuối năm 2011, một nam thanh niên đi xe BMW X6 cũng đã tự xưng là “cháu tướng Nhanh” để “dọa” cảnh sát giao thông… Đó chỉ là 2 trong số rất nhiều trường hợp vi phạm luật giao thông, khi bị xử lý thì chống đối và xưng là người quen của những vị cán bộ có chức vụ lớn…


Hoa Văn Phương liên tục gọi điện và không ngớt lời đe dọa rằng, thân nhân của anh ta có chức vụ to trong bộ máy nhà nước.

Trước những sự việc có các đặc điểm khá tương đồng như vậy, phóng viên Giáo dục Việt Nam đã có cuộc trao đổi với các chuyên gia xã hội học về hiện tượng xã hội không còn mang tính cá biệt này.

Về những nguyên nhân có thể dẫn đến các hiện tượng này, PGS. TS Xã hội học Nguyễn An Lịch nói: “Theo cá nhân tôi, việc đó có nhiều nguyên nhân. Nguyên nhân thứ nhất là do hệ thống pháp luật chưa nghiêm. Thứ hai, người thực hiện luật không nghiêm. Thứ ba là do nền giáo dục của toàn xã hội, của gia đình, của cộng đồng với những người đó.

Tại sao lại có người ỷ lại hoặc bịa là con ông nọ, con ông kia? Đã có chuyện lái xe vi phạm, công an “tuýt còi”lập tức lái xe gọi điện cho người quen. Người quen lại gọi cho công an và công an để cho đi… Rõ ràng, ở đây có sự tiêu cực như vậy nên người ta coi thường thôi.

Xuất phát từ những trường hợp làm không đúng luật tạo nên cái ý thức trong xã hội, dẫn đến mọi người nhờ cậy quen rồi. Đây là những biểu hiện nhỏ, còn những biểu hiện lớn hơn là hiện tượng một số người có tâm lý muốn nhờ cậy người khác để làm ăn phi pháp”.

PGS Nguyễn An Lịch cho biết thêm: “Để giảm xu hướng như vậy, cách duy nhất hiện nay là tất cả trường hợp, kể cả con của lãnh đạo cấp cao nhất mà vi phạm thì cũng phải xử lý nghiêm, không ai can thiệp. Và trong trường hợp này, công an cứ việc xử lý công bằng, bình đẳng như những người dân khác”.

Cùng quan điểm với PGS. TS Nguyễn An Lịch, PGS. TS Trịnh Hòa Bình (Viện Xã hội học) cũng có những kiến giải lý thú về hiện tượng này.


Còn Nguyễn Thanh Quang thì luôn tự xưng là "cháu" tướng Nhanh...

“Trước tiên, chúng ta hãy nói về hiện tượng khi các “thần dân” không chấp hành một cách đúng đắn các luật lệ giao thông mà bị nhà chức trách hoặc các nhân viên công vụ chặn lại, yêu cầu thực hiện đòi hỏi pháp định thì thường tìm sự trợ giúp của người khác. Việc này có nét gì đó giống như người ngồi trên chiếc ghế nóng của chương trình “Ai là triệu phú” trên TV vậy. Vì sao lại có sự tìm kiếm sự trợ giúp như vậy?


Cái này xuất phát từ tâm lý tiểu nông, tính chất bầy đàn hoặc là tính chất thân tộc đều đúng cả. Người Việt Nam mình hay có kiểu một người làm quan cả họ được nhờ vì thế hay có sự viện dẫn. Và chính điều này lại đánh vào tâm lý  của người Phương Đông: nể họ hàng, vị thế, quyền lực nên dẫn tới việc người ta lợi dụng hoặc thậm chí là bịa đặt các mối quan hệ với những người có chức, có quyền. Đó là thói quen của người phương Đông”, ông Bình nói.

Ông Bình cũng phân tích thêm: “Tuy nhiên cũng phải thấy rằng trên thực tế, những mối quan hệ ấy đã giải quyết được rất nhiều. Chính vì như vậy nên người ta mới bắt chước sử dụng hình thức đó cho dù không có họ hàng bởi vì nhân viên công vụ, người thực thi quyền lực e ngại người có quyền lớn hơn mình hoặc cả nể người khác. Từ đó tạo cho cả xã hội một tâm thế: có người quen thì nhờ cậy còn không thì bịa đặt, lừa bịp…

Đó cũng xuất phát từ thói sỹ diện chỉ vì không muốn mất một đồng tiền phạt mà phải đi nhờ cậy chỗ nọ chỗ kia. Người phạm lỗi do xin xỏ được không phải nộp tiền thì lại thấy sung sướng hơn khi bị phạt. Nhưng có khi phải đi cảm ơn, lễ lạt cho những người đã giúp đỡ mình với số tiền còn lớn hơn cả tiền phạt".

"Tôi đánh giá trường hợp này, người ta sẽ tốn nhiều tiền hơn. Lắm khi còn phải hai lần cảm ơn. Nhưng ở đời người ta lại như vậy, tránh được việc nộp phạt thì oai, có giá với cộng đồng… Sự thể hiện tâm lý bầy đàn. Chẳng vinh quang gì khi đi khoe người nhà ông nọ bà kia. Đó là lý do để có nhiều người là “con, cháu” tướng Nhanh như thế”, ông Bình lý giải.

Nói về cách giải quyết một cách triệt để, ông Bình nói: “Vấn đề ở đây cũng có thể là do nhân viên công vụ có lỗi nên mới sợ bóng sợ gió. Chứ những người không vị nể, cứ đúng phép công mà làm thì người ta chẳng việc gì phải sợ những lời đó cả.

Mọi cá nhân đều bình đẳng trước pháp luật, quân pháp vô thân. Tóm lại là muốn giải quyết vấn đề thì phải rành mạch, thượng tôn pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền đi liền với xã hội dân sự. Tức là không ai phải chịu trách nhiệm về ai. Tại sao vẫn hô hào như vậy mà không làm được. Đó là vì từ cả hai phía: phía nhân viên công vụ, phía những nhà chức trách ỷ thế làm càn nhiều. Khi đó đều có sự hóa giải cho nhau và những tấm gương xấu như vậy đã đưa cộng đồng đến suy nghĩ là có thể làm như thế”.



Thứ Ba, 10 tháng 4, 2012

Trần Thủ Độ: công hay tội ?

Hậu thế mãi mãi ghi nhớ câu nói khí phách ngất trời của Trần Thủ Độ trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông: "Đầu thần chưa rơi xuống đất, Bệ hạ chớ có lo gì”, nhưng ít ai chú ý đến những chuyện rất độc đáo khác về vị Thái sư này.

Có thể nói, cuộc "đảo chính" cung đình êm ả và hữu hiệu vào cuối năm 1225 đầu 1226 đã chấm dứt 215 năm trị vì của Vương triều Lý để chuyển ngôi vị sang một triều đại mới do dòng họ Trần nắm giữ. Đạo diễn và thực hiện cuộc đảo chính này là Điện tiền Chỉ huy sứ Trần Thủ Độ (1194 - 1264).


Sách Đại Việt sử kí toàn thư viết: “Thủ Độ tuy không có học vấn nhưng tài trí hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn. Thái Tông lấy được thiên hạ đều nhờ vào mưu sức của ông cả, vì thế, ông được nhà nước dựa cậy, quyền át cả vua. Bấy giờ có kẻ đàn hặc ông, vào gặp Thái Tông, khóc mà nói rằng: "Bệ hạ còn thơ ấu mà Thủ Độ thì quyền át cả vua, xã tắc rồi sẽ ra sao?". Thái Tông lập tức ra lệnh cho xe ngựa đến dinh Thủ Độ, bắt cả người đàn hặc ấy đem theo và kể hết những lời người ấy nói cho Thủ Độ biết. Thủ Độ trả lời rằng: "Quả có đúng như những lời hắn nói thật. Xong, đem tiền lụa mà thưởng cho".

Theo sách Việt sử giai thoại, Linh từ Quốc mẫu Trần Thị Dung có lần ngồi kiệu đi qua thềm cấm, bị quân hiệu ngăn lại, về dinh khóc kể với Thủ Độ rằng: "Mụ này làm vợ ông mà bị bọn quân hiệu khinh nhờn đến thế ư ?". Trần Thủ Độ tức giận liền sai người đi bắt người quân hiệu kia. Người quân hiệu ấy nghĩ rằng mình chắc là phải chết. Đến nơi, Thủ Độ vặn hỏi trước mặt Linh Từ, người quân hiệu ấy cứ theo sự thực mà trả lời. Thủ Độ nói: "Ngươi ở chức thấp mà giữ được luật pháp, ta còn trách gì được nữa". Nói xong, đem vàng lụa thưởng cho.

Có lần Trần Thủ Độ đi duyệt định hộ khẩu, bà Quốc mẫu xin riêng cho một người được làm chức Câu đương, Thủ Độ gật đầu rồi ghi rõ họ tên quê quán người đó. Khi xét duyệt đến xã ấy, liền hỏi tên nọ ở đâu, người đó mừng rỡ chạy đến. Thủ Độ bảo hắn: “Ngươi vì có công chúa xin cho được làm Câu đương, không thể ví như những Câu đương khác được, phải chặt một ngón chân để phân biệt với người khác!". Người đó van xin mãi mới tha cho. Từ đó, không ai dám đến thăm Thủ Độ vì việc riêng nữa.

Thái Tông có lần muốn cho người anh của Thủ Độ là An Quốc làm Tể tướng, Thủ Độ tâu: “An Quốc là anh thần, nếu cho là giỏi hơn thần thì thần xin trí sĩ, còn nếu cho thần giỏi hơn An Quốc thì không thể cử An Quốc. Nếu anh em đều làm Tể tướng cả thì việc triều đình sẽ ra sao?”. Vua bèn thôi.


Lăng mộ Trần Thủ Độ ở tỉnh Thái Bình. Ảnh minh họa

Về con người Trần Thủ Độ, hầu hết các nhà sử học phong kiến và hiện đại luôn nhận xét hai mặt: vừa khen lại vừa phê phán. Khen vì những công trạng, những việc ông làm cho nhà Trần, nhưng lại phê phán vì những việc ông làm với nhà Lý. Nhưng chẳng phải đợi đến một nghìn năm, mà chỉ hơn 600 năm sau, năm 1905, tại thôn Thái Bình, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, chính tại nơi mà sử chép Trần Thủ Độ đặt bẫy giết hại họ Lý, nhân dân đã dựng một ngôi đình Thái Bình để thờ Lý Chiêu Hoàng ngồi giữa, Trần Cảnh và Trần Thủ Độ ngồi hai bên.

Bà Ngô Vũ Hải Hằng, Viện Sử học, từng cho rằng: “Dưới con mắt của nhân dân, Trần Thủ Độ hoàn toàn khác với những nhận định của các sử quan phong kiến. Nhân dân biết ơn ông đã cứu đất nước thoát khỏi cảnh loạn lạc, và nhờ có tài thao lược, khí phách hiên ngang, tinh thần kiên quyết của ông mà Đại Việt mới thoát khỏi cảnh nô lệ ở nửa sau thế kỷ 13”.

Thứ Hai, 9 tháng 4, 2012

Kỳ lạ ngôi làng "siêu cổ" có từ thời Hùng Vương

Trong khi nhiều nơi trên cả nước cơ bản đã... xóa xong làng cổ thì ngay sát Hà Nội vẫn có một ngôi làng cổ có niên đại gần 4000 năm tồn tại.

Làng Phù Lưu, Từ Sơn, Bắc Ninh hiện là một trong những ngôi làng có niên đại cổ nhất Việt Nam còn được lưu giữ.


Điểm đặc biệt của ngôi làng này ngoài niên đại rất lâu đời còn là ngôi làng cực hiếm có con đường lát đá xanh làm thành một vạch xương sống vòng quanh làng. Ở những trục đường chính, được lát 4 viên gạch, còn những trục đường phụ chỉ có 2 viên.


Cổng làng Phù Lưu là nơi bắt đầu của con đường đá xanh chạy dọc suốt xung quanh làng


Qua bao vật đổi sao dời, con đường đã xanh vẫn còn nguyên dáng vẻ của nó, xanh mát và đều chằn chặn, không cong vênh, gồ ghề. Đây cũng là nơi mưu sinh của biết bao con người trong làng.


Điểm đặc biệt tiếp theo của làng Phù Lưu từ xa xưa đó là Từ Phù Lưu đã hình thành một kiểu làng hoàn toàn khác biệt, làng trong phố, phố trong làng. Phố thì có nhiều ngôi nhà xây kiểu tây, sinh hoạt theo kiểu phố. Còn làng, có những ngôi nhà cổ, vẫn sinh hoạt theo kiểu làng.


Còn đường lát đá xanh này do cụ Hoàng Thùy Chi, Tổng trấn Bắc Giang ngày xưa chỉ đạo khởi công xây dựng từ năm 1933 đến năm 1943 mới xong. Đến nay, dù bao thăng trầm của lịch sử nhưng con đường vẫn còn y nguyên.


Những ngôi nhà cổ giống Hà Nội xưa vẫn còn ở làng Phù Lưu


Con đường đá xanh đặc biệt len lỏi vào sâu tận các ngóc ngách của làng


Cũng từ ngôi làng này, sinh ra rất nhiều người con nổi tiếng làm rạng danh người dân nơi đây như: nhà báo Hoàng Tích Chu, người đã làm một cuộc cách tân làm thay đổi hẳn phong cách của báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX; họa sỹ Hoàng Tích Chù, người đã nhận Giải thưởng Hồ Chí  Minh; nhà văn Kim Lân, nhà văn Nguyễn Địch Dũng, nhà thơ Hoàng Hưng; nhà quay phim, NSND Nguyễn Đăng Bẩy, nhạc sỹ Hồ Bắc, họa sỹ Thành Chương, họa sỹ Nguyễn Thị Hiền.


Dân ở đây hầu như không làm ruộng, ruộng chỉ đếm trên đầu ngón tay mà chủ yếu buôn bán. Phụ nữ Phù Lưu nổi tiếng buôn bán giỏi nuôi chồng nuôi con ăn học.


Phù Lưu là làng có nhiều bố mẹ nuôi nhất nước, người nào trên 60 tuổi không có bố mẹ nuôi thì không phải là người làng Phù Lưu.

Điều đặc biệt cuối cùng mà không nhiều người biết về Phù Lưu đó là đây chính là nguyên mẫu ngôi làng trong tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân.